Đưa chính sách vào cuộc sống
Năm 2014, thế giới đối mặt với nhiều khó khăn thách thức, xung đột chính trị diễn biến rất phức tạp và xảy ra ở nhiều nơi, kinh tế phục hồi chậm hơn dự báo. Ở trong nước, tăng trưởng kinh tế có bước phục hồi nhưng môi trường kinh doanh cũng như năng suất, hiệu quả, sức cạnh tranh của nhiều ngành còn thấp, trong khi yêu cầu hội nhập quốc tế ngày càng cao. Nhu cầu cho phát triển kinh tế, an sinh xã hội và bảo đảm quốc phòng, an ninh rất lớn nhưng nguồn lực còn hạn hẹp...
Tuy nhiên, ngành LĐ-TB&XH đã hoàn thành toàn diện những chỉ tiêu, nhiệm vụ đề ra: Đã tham mưu cho Đảng, Quốc hội, Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ ban hành nhiều cơ chế, chính sách về an sinh xã hội; các chỉ tiêu kế hoạch về lao động, người có công và xã hội đạt kết quả tích cực, an sinh xã hội được đảm bảo, góp phần cùng cả nước hoàn thành chỉ tiêu kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội Quốc hội giao.
Tại Hội nghị, Phó Thủ tướng chỉ đạo: Năm 2015, Bộ LĐ-TB&XH tiếp tục tham mưu cho Đảng, Quốc hội, Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ ban hành nhiều cơ chế, chính sách về an sinh xã hội để các chính sách đó được triển khai hiệu quả trong thực tiễn cuộc sống, trong đó tập trung vào một số lĩnh vực chính, như việc làm, đào tạo nghề, phòng chống tệ nạn ma túy, mại dâm, chăm lo cuộc sống của người có công...
Tiếp tục hoàn thiện cơ chế, chính sách an sinh xã hội, thực hiện tốt các chính sách về lao động, dạy nghề, việc làm, thị trường lao động, tiền lương, an toàn, vệ sinh lao động.
Phó Thủ tướng nhấn mạnh: “Những thành tích đã đạt được và nhiệm vụ đặt ra đối với ngành LĐ-TB&XH là rất lớn, có những vấn đề tồn tại của xã hội mà không chỉ ngành LĐ-TB&XH cố gắng là có thể làm được, ví dụ như năng suất lao động, làm sao các sở LĐ-TB&XH cũng như ngành LĐ-TB&XH có thể chịu trách nhiệm hết và “thúc” năng suất lên được.
Năng suất phụ thuộc vào trình độ, công nghệ, môi trường, cạnh tranh... và nhiều yếu tố khác rồi mới đến nhân lực. Nói như vậy không có nghĩa là ngành LĐ-TB&XH không có trách nhiệm nâng cao năng suất lao động.
Với vấn đề giảm nghèo bền vững, một mình ngành LĐ-TB&XH khó thực hiện được, giảm nghèo ở khu vực miền núi phải gắn liền với nông nghiệp, chăn nuôi, chế độ chính sách...
Chúng ta đã hình thành một hệ thống an sinh xã hội, thời gian tới Bộ LĐ -TB&XH cần tập trung rà soát lại cơ chế, từng bước hoàn thiện được hệ thống văn bản, cơ chế chính sách về an sinh xã hội, và quan trọng nhất là đưa chính sách vào cuộc sống”.
Đổi mới căn bản công tác dạy nghề
Năm 2014, lĩnh vực dạy nghề đã tuyển mới 2,023 triệu người, đạt 113,7% kế hoạch, mạng lưới dạy nghề tiếp tục được phát triển theo hướng xã hội hóa. Đến cuối năm 2014, cả nước có 1.465 cơ sở dạy nghề, gồm: 173 trường cao đẳng nghề, 301 trường trung cấp nghề và 991 trung tâm dạy nghề.
Các điều kiện đảm bảo chất lượng dạy nghề được đầu tư tập trung, đồng bộ theo các nghề trọng điểm. Cơ cấu ngành nghề đào tạo từng bước được điều chỉnh gắn với nhu cầu thị trường lao động, doanh nghiệp và từng bước hội nhập quốc tế, ngày càng phù hợp hơn với nhu cầu sản xuất kinh doanh và nhu cầu của người học nghề.
Cơ chế liên kết giữa cơ sở dạy nghề với doanh nghiệp, làng nghề, vùng chuyên canh về nông, lâm, ngư nghiệp, bước đầu phát huy hiệu quả, góp phần tạo việc làm, nâng cao năng suất lao động.
Đặc biệt, đào tạo nghề cho lao động nông thôn ngày càng được khẳng định, tạo điều kiện thúc đẩy chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông thôn, cơ cấu lao động và xây dựng nông thôn mới, góp phần tăng năng suất lao động, tiết kiệm chi phí sản xuất, tăng thu nhập; có trên 30% người lao động sau học nghề đã tìm được việc làm mới hoặc đã thành lập doanh nghiệp, tổ hợp tác sau học nghề.
Trước những thành tích đã đạt được, Phó Thủ tướng Vũ Đức Đam yêu cầu, trong năm 2015, ngành LĐ-TB&XH cần tập trung vào lĩnh vực đào tạo nghề theo nhiệm vụ trọng tâm của Chiến lược phát triển dạy nghề thời kỳ 2011 - 2020.
Ngoài hệ thống pháp luật và cơ chế chính sách liên quan đến lao động thì đào tạo nghề, thị trường lao động, các trung tâm giới thiệu việc làm, sàn giao dịch việc làm... cũng rất quan trọng. Đây là nhiệm vụ trọng tâm của ngành LĐ-TB&XH trong năm 2015 và một số năm tới.
Với 1.465 trường nghề trên cả nước, Phó Thủ tướng lưu ý: “Chúng ta cần đánh giá, so sánh hiệu quả giữa hệ thống trường công, trường tư như thế nào, từ đó xây dựng lộ trình, hướng sắp xếp căn bản hệ thống dạy nghề một cách thiết thực, tiết kiệm nhất”. Vì sao các trường nghề tư thục phải đầu tư cả về cơ sở vật chất mà có những trường làm rất tốt, trong khi đó, trường công của chúng ta có cơ sở vật chất, giáo viên được tạo điều kiện nhưng hoạt động không hiệu quả? “Phải nhìn thẳng vào sự thật, tập trung rà soát, sắp xếp lại hệ thống trường nghề, trung tâm dạy nghề và sàn giao dịch việc làm theo hướng không thể tiếp tục bao cấp tràn lan, không hiệu quả. Cùng với đó là đẩy mạnh giao quyền tự chủ đầy đủ cho các trường nghề công lập, triển khai đề án xây dựng trường nghề chất lượng cao theo chuẩn quốc tế, công nhận bậc đào tạo kỹ sư, cử nhân thực hành...”, Phó Thủ tướng chỉ đạo.
Theo Phó Thủ tướng Vũ Đức Đam, để nâng chất lượng đào tạo đại học, cao đẳng, hệ nghiên cứu, hàn lâm thì phải đầu tư lâu dài vào những nhà khoa học đầu ngành, hệ thống phòng thí nghiệm...Thế nhưng hệ thống trường nghề, thực hành có thể tập trung đổi mới rất nhanh khi gắn với doanh nghiệp, có thể thấy ngay hiệu quả. “Việt Nam dẫn đầu trong Kỳ thi tay nghề ASEAN 2014 nhưng chất lượng lao động của ta vẫn còn khoảng cách với các nước ASEAN. Điều này buộc chúng ta phải phấn đấu đưa chất lượng nguồn nhân lực tiến tới thứ bậc giống như trong thi tay nghề ASEAN, đây là nhiệm vụ dài hơi nhưng phải nỗ lực thực hiện”.