Ảnh minh họa: Internet
Kiểm tra là một hoạt động thường xuyên, có mối quan hệ lôgíc trong mọi hình thái quản lý (cộng đồng, gia đình hoặc công quyền...). Tuy nhiên, trong không ít trường hợp, ý nghĩa và vai trò của hoạt động kiểm tra không được quan tâm bằng các hoạt động khác của quản lý nhà nước, như: xây dựng thể chế, tổ chức, nhân sự…, mặc dù trong khoa học quản lý nhà nước, không thể nói hoạt động (khâu) nào là quan trọng nhất. Bởi vì, quản lý nhà nước là một lĩnh vực chỉnh thể và có tính liên thông, thống nhất giữa các hình thức hoạt động, trong đó kiểm tra được coi là khâu cuối cùng tiệm cận kết quả của mọi hoạt động, mọi hình thái tổ chức. Thực tế quản lý nhà nước trong bối cảnh dịch COVID-19 đang diễn ra cho thấy, công tác kiểm tra đã bộc lộ không ít khiếm khuyết, bất cập. Chẳng hạn, quan hệ giữa ban hành với tổ chức thi hành thể chế; quan hệ giữa kế hoạch và thực thi trong thực tế; quan hệ chức năng giữa người ban hành quyết định quản lý với các cơ quan chuyên môn liên quan đến tình huống “cấp và kiểm tra giấy đi đường”. Đáng chú ý là qua kiểm tra trực tuyến, trực tiếp giữa cấp trên và cấp dưới cho thấy vẫn có những điểm chưa tốt (dù rất ít) trong năng lực nắm bắt và xử lý thực tiễn của một bộ phận công chức lãnh đạo, nhất là lãnh đạo địa phương... khiến Thủ tướng Chính phủ cũng băn khoăn: nghe báo cáo (về phòng, chống COVID-19) chỗ nào cũng tốt, nhưng kiểm tra mới biết chỗ nào tốt hay không tốt(1).
Thực tế đó cũng cho thấy, vẫn còn một bộ phận công chức coi công tác kiểm tra là yếu tố phụ, để “trả bài” trong các khóa bồi dưỡng, mà chưa nhận thức đó là khâu đặc biệt, thể hiện năng lực và bản lĩnh trong các báo cáo, giải trình, đề xuất sáng kiến trong những tình huống cụ thể của cấp dưới đối với cấp trên; những phát hiện, điều chỉnh sai lệch xuất hiện (như trong kế hoạch hay tổ chức thực thi công vụ) của cấp trên đối với cấp dưới.
Kiểm tra, hiểu theo nghĩa thông thường và trên cơ sở khoa học, là việc một chủ thể tác động tới đối tượng quản lý, xem xét lại những việc đã được chuẩn bị tổ chức thực hiện ở hầu hết các hoạt động trong chu trình của quản lý nhà nước. Quan điểm có tính phổ biến cho rằng, kiểm tra bao gồm tất cả các hoạt động mà nhà quản trị thực hiện nhằm đảm bảo chắc chắn rằng các kết quả thực tế sẽ đúng như kết quả dự kiến trong kế hoạch(2). Trong quản lý nói chung, khi có hoạt động thì phải có sự kiểm tra trước để bảo đảm thành công khi tổ chức thực hiện. Vì vậy, kiểm tra là nhiệm vụ rất quan trọng của người đứng đầu một bộ phận trong quản lý khi thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn (từ tổ trưởng, trưởng phòng, chủ tịch UBND cấp xã; cấp trung gian như vụ trưởng, giám đốc sở, chủ tịch UBND cấp huyện; cấp cao như chủ tịch UBND cấp tỉnh, bộ trưởng... đến vị trí cao nhất của Chính phủ là Thủ tướng). Do vậy, không thể có một hoạt động nào đó trong quản lý lại không có hoạt động kiểm tra trước khi tổ chức thực hiện.
Trên phương diện lý thuyết, kiểm tra có những đặc điểm sau:
- Tính khách quan và chủ quan: tính khách quan là quy trình trong khoa học quản lý, ai tham gia hoạt động công vụ cũng phải tuân thủ. Tính chủ quan là chủ thể kiểm tra là con người, mà con người thì không giống nhau về năng lực, phẩm chất, kinh nghiệm, chuyên môn, kỹ năng…
- Có ở tất cả các vị trí công vụ: bất kỳ vị trí trong nền công vụ nào cũng đều có chức năng tương tác với xã hội, phục vụ xã hội, mà đã là chức năng thì không thể bỏ qua. Hoạt động kiểm tra trong quản lý nhà nước không chỉ cho biết người lãnh đạo nào sâu sát công việc, hay có tính quan liêu; mà còn giúp sửa chữa những khiếm khuyết của hoạt động công vụ. Chủ tịch Hồ Chí Minh đã chỉ rõ công tác kiểm tra là nhằm mục đích: “…biết rõ năng lực và khuyết điểm của cán bộ, mới sửa chữa và giúp đỡ kịp thời”(3).
- Đa dạng về chủ thể và đối tượng kiểm tra: ở những nhóm vị trí công vụ khác nhau đều có chủ thể kiểm tra và đối tượng bị kiểm tra tương ứng (người đứng đầu, bộ phận giúp việc, công chức thực thi...). Trong công tác phòng, chống dịch bệnh (như dịch COVID-19), kiểm tra có ở hầu hết các hoạt động như xây dựng và tổ chức thực hiện quyết định quản lý; mua, bán thuốc và phân phối, sử dụng thuốc; phối hợp và triển khai thu dung, điều trị bệnh nhân COVID-19…
- Kiểm tra rất cần thiết và quan trọng: vừa nhằm phát huy tính tích cực, vừa hạn chế những tiêu cực trong hành vi của con người nói chung và công chức nói riêng. Hành vi của con người bị chi phối bởi nhiều yếu tố chủ quan, như: nhận thức về trách nhiệm; tâm lý, tình cảm của người ra lệnh hoặc người phục tùng; sự nhạy bén hoặc chậm trễ, thiếu sáng tạo; tác phong thực dụng hoặc đề cao trách nhiệm trong công việc; đạo đức công vụ; thích ứng hoặc chậm thích ứng với sự thay đổi (như cơ chế, ứng dụng công nghệ..)…
- Quy trình kiểm tra mang tính bao quát, đa chiều. Bao gồm: kiểm tra theo hệ thống thứ bậc hành chính; kiểm tra theo chức năng khi chủ thể ngang bằng về vị thế, như giữa bộ với bộ, sở với sở; kiểm tra chéo để đo lường tính thống nhất hay không thống nhất khi các bộ phận cấu thành cùng triển khai một hoạt động nào đó (như các sở, vụ cùng chuyên môn…); tự kiểm tra. Mặt khác, công tác kiểm tra còn mang tính chất là loại hoạt động có tính tương tác tích cực.
- Có nhiều hình thái linh hoạt, sáng tạo: chủ thể kiểm tra thường tiến hành các loại hoạt động như: nghe báo cáo của cấp trên và giải trình của cấp dưới; đi thực tế ở cơ sở (ví dụ Thủ tướng Chính phủ Phạm Minh Chính trực tiếp đi kiểm tra phòng, chống dịch COVID-19 tại một số địa bàn xã, phường). Hiện nay, thông qua ứng dụng công nghệ thông tin hiện đại mà chủ thể kiểm tra có thể tương tác trực tuyến với đối tượng được kiểm tra, với cấp cơ sở (như Thủ tướng Phạm Minh Chính thiết lập phòng họp trực tuyến ngay tại Trụ sở Chính phủ để kiểm tra công tác phòng, chống dịch COVID-19 với các bộ, ngành, địa phương).
Ý nghĩa của kiểm tra đối với quản lý nhà nước và quản lý xã hội
Thứ nhất, giúp cho kết quả đầu ra của quản lý nhà nước đúng với mục đích, mục tiêu đặt ra ban đầu.
Thứ hai, có tác động mạnh mẽ đến phát huy tính tích cực và hạn chế các yếu tố không tích cực (chủ yếu là sự chi phối của yếu tố chủ quan) trong quản lý nhà nước để có biện pháp, giải pháp phù hợp.
Thứ ba, tạo hiệu ứng xã hội về kinh tế - xã hội, tác động đến ý thức của các chủ thể quản lý nhà nước, tác động đến quản lý xã hội (các đối tượng thực hiện nghĩa vụ hoặc thụ hưởng chính sách…). Việc thiếu kiểm tra, dự báo trong phòng, chống dịch COVID-19 vừa qua đã khiến cho hành vi quản lý từ mục đích “khơi thông” lại vô tình trở thành “điểm nghẽn”, lực cản, như gây đình trệ, đứt gãy các chuỗi cung ứng, sản xuất, lưu thông hàng hóa; chậm giải ngân hoặc giải ngân không đúng đối tượng thụ hưởng các gói an sinh xã hội…
Thứ tư, tạo ra những hiệu ứng gián tiếp của quản lý (là những tác động đến từ việc kiểm tra tới những tình huống gián tiếp của quản lý nhà nước). Ví dụ, kiểm tra công vụ để xem công chức có làm đúng chức phận, hoàn thành nhiệm vụ được giao hay không... Các hiệu ứng gián tiếp có thể bao gồm: sử dụng nguồn nhân lực; công tác tổ chức thực hiện có hiệu quả; phát huy vai trò của người đứng đầu; nâng cao chất lượng quy hoạch, sử dụng nguồn nhân lực quản lý nhà nước; kiểm nghiệm, đánh giá tương quan giữa điều kiện, tiêu chuẩn và năng lực xử lý, giải quyết các tình huống trong thực tiễn quản lý nhà nước…
Một số bài học kinh nghiệm qua công tác kiểm tra phòng, chống dịch COVID-19
Qua hoạt động kiểm tra và đánh giá tổng thể các hoạt động phòng, chống dịch COVID-19 đã và đang diễn ra, có thể rút ra một số bài học kinh nghiệm sau:
Một là, huy động các lực lượng, chuyên gia tham gia phòng, chống dịch bệnh là rất quan trọng đối với các nhà quản lý. Bởi vì, chỉ các chuyên gia có chuyên môn sâu mới hiểu biết thấu đáo về nguyên nhân, diễn biến, cách phòng, chống, khắc phục hệ lụy (chủ yếu là về sức khỏe con người để từ đó duy trì các hoạt động kinh tế - xã hội). Quản trị xã hội trước hết là của Nhà nước, cơ quan công quyền cần biết rõ phải ra quyết định quản lý như thế nào để phòng, chống dịch bệnh hiệu quả; vì vậy, Nhà nước có quyền huy động các chuyên gia, nhà khoa học, trước hết là trong lĩnh vực y tế, chăm sóc sức khỏe. Vai trò của quản lý nhà nước trong việc huy động sự tham gia và đóng góp thực tế của giới chuyên môn khoa học là sự tương tác pháp lý - trách nhiệm xã hội, song không thể thay thế nhau được. Vai trò của kiểm tra trong quản lý nhà nước ở đây thể hiện qua các hoạt động cụ thể, như kiểm tra xem các quyết định hành chính đã tham khảo ý kiến của các nhà nghiên cứu, hoạt động nghiệp vụ liên quan đến phòng, chống dịch bệnh, chứ không chỉ với giám đốc sở y tế hoặc giám đốc bệnh viện, quản lý cơ sở khám, chữa bệnh... Qua đó có thể thấy trách nhiệm xã hội của các nhà khoa học, chuyên môn tham gia ý kiến như thế nào trong việc ban hành và thi hành các chính sách phòng, chống dịch bệnh, như giãn cách, tiêm chủng, sản xuất vacxin...
Hai là, Chính phủ đã thẳng thắn đánh giá: “… những vướng mắc về cơ chế, chính sách, quy trình rườm rà, thậm chí cả tâm lý sợ trách nhiệm khiến Việt Nam có biểu hiện chậm chân trong “cuộc đua” tiếp cận vacxin”(4). Tuy nhiên, điều đó không thể không nhắc đến vai trò tham mưu, tư vấn rất quan trọng của các nhà khoa học, chuyên môn để lãnh đạo Đảng và Nhà nước đề ra giải pháp, sách lược “ngoại giao vacxin”(5) rất kịp thời và hiệu quả. Qua đó, đặt ra nhiều vấn đề từ lý thuyết quản lý, về quan hệ giữa quản lý chuyên ngành (các nhà khoa học, các cơ quan chuyên môn...) với việc ban hành và thi hành quyết định hành chính, nhất là ở cơ quan quản lý nhà nước theo ngành, lĩnh vực.
Ba là, kiểm tra trong tình huống cấp thiết, đặc biệt quan trọng có thể thiết lập hệ thống “kiểm tra vượt tuyến” (lãnh đạo Chính phủ kiểm tra trực tiếp bằng hệ thống trực tuyến xuống tận cấp chính quyền cơ sở) là bài học thực tiễn rất sâu sắc về sự linh hoạt, chủ động, sáng tạo về cách thức tổ chức thực hiện có hiệu quả công tác kiểm tra trong quản lý nhà nước.
Bốn là, cần có giải pháp thích ứng khi thực tế đã diễn biến khác đi. Qua kiểm tra cho thấy diễn biến của dịch bệnh và quyết sách của Chính phủ (thực hiện mục tiêu kép), cần phải thay đổi giải pháp quản lý dịch bệnh là từ quản lý theo diện rộng, khống chế từ xa (theo vùng hành chính), đến quản lý theo cách khống chế tại chỗ, giãn cách “nhỏ nhất, hẹp nhất có thể”(6) thì mới đáp ứng mục đích, mục tiêu của quản lý nhà nước. Thực tiễn đó đã chứng minh rằng, nhiệm vụ, mục đích giống nhau, nhưng giải pháp phải linh hoạt, không cứng nhắc, máy móc.
Năm là, dư luận xã hội là kênh thông tin rất hữu ích trong quản lý và ứng phó các tình huống xã hội. Dư luận xã hội có nhiều kênh và nhiều cách nhận thức khác nhau với cùng một tình huống; nhưng việc tìm đúng bản chất sự thật để có biện pháp xử lý phù hợp mới là yêu cầu đặt ra đối với quản lý nhà nước. Chỉ cần một thông tin (có hình ảnh) về ùn tắc tại điểm giao thông, tại nơi cấp giấy đi đường, nơi tiêm chủng… cho thấy có những bất ổn trong giải pháp quản lý. Đặc điểm của thông tin qua dư luận xã hội là rõ ràng, trực tiếp và cho mọi người (mọi ngành, mọi cấp…). Vì vậy, có thể rút ra những tác dụng của dư luận xã hội đối với quản lý nhà nước trong phòng, chống dịch COVID-19 vừa qua cho thấy: năng lực của cơ quan quản lý, cấp chính quyền và công chức lãnh đạo, công chức chuyên môn; tính thích ứng xã hội của hệ thống văn bản quản lý nhà nước; có hay không sự buông lỏng, quan liêu trong quản lý nhà nước, như Chủ tịch Hồ Chí Minh đã chỉ rõ rằng qua kiểm tra mới “… huy động tinh thần tích cực và lực lượng to tát của nhân dân, mới biết rõ năng lực và khuyết điểm của cán bộ…”(7)./.
GS.TS Nguyễn Hữu Khiển - Nguyên Phó Giám đốc Học viện Hành chính Quốc gia
---------------------------------
Ghi chú:
(1) Báo Dân trí điện tử, ngày 16/9/2009.
(2) Tham khảo: http://quanlydoanhnghiep.edu.vn (ngày 02/12/2020)
(3),(7) Hồ Chí Minh, Toàn tập, tập 5, Nxb CTQG-ST, H.2011, tr.636, tr.636.
(4) https://moh.gov.vn › (Bằng mọi giá có vacxin nhanh nhất : 01/6/2021) https://www.qdnd.vn › virus-so-trach...
(5) https://www.qdnd.vn (17/8/2021)
(6) http://www.hanoimoi.com.vn › Xa-hoi; Báo Tuổi trẻ điện tử ngày 16/9/2021.