ảnh minh họa
Số người mắc vẫn có xu hướng tăng
Thuốc lá không những gây ung thư phổi mà còn gây ra nhiều bệnh phổi khác như: Bệnh phổi tắc nghẽn mạn tính, hen phế quản, nhiễm trùng đường hô hấp. Khi khói thuốc đi vào qua miệng, người hút thuốc đã vô tình bỏ qua cơ chế bảo vệ thứ nhất đó là quá trình lọc ở mũi ảnh hưởng đến chức năng phổi.
Những người hút thuốc thường bài tiết nhiều đờm hơn những người không hút thuốc mà khả năng đưa đờm ra khỏi đường hô hấp lại kém hơn do hệ thống lông chuyển bị liệt, thậm chí bị phá hủy. Khói thuốc cũng làm thay đổi cấu trúc các tuyến tiết nhầy và thành phần của chất nhầy.
Đôi khi các tuyến tiết nhầy bị tắc lại làm giảm khả năng bài tiết đờm. Hậu quả là chất nhầy ở những người hút thuốc bị nhiễm bởi các chất độc hại và bị giữ lại nhiều trong tổ chức phổi, cản trở sự lưu thông trao đổi khí. Phổi của những người hút thuốc bị giảm diện tích bề mặt và giảm mao mạch, làm cho dòng máu lưu thông qua phổi bị giảm, dẫn đến làm giảm cung cấp chất dinh dưỡng và oxy cần thiết cho cả nhu môi phổi và các tổ chức khác trong cơ thể.
Hút thuốc cũng gây ra hiện tượng tăng tính đáp ứng đường thở do ảnh hưởng của các chất độc hại trong khói thuốc, gây co thắt đường thở. Nhiều thông số chức năng thông khí ở người hút lá thay đổi, trong đó thể tích khí thở ra gắng sức trong giây đầu tiên (FEV1) giảm rất nhiều.
Ở trẻ nhỏ và thiếu niên, khói thuốc làm giảm sự phát triển của phổi và gây viêm tổ chức phổi, biểu hiện bằng tốc độ tăng FEV1 chậm lại. Ở lứa tuổi từ 20 - 30, các bệnh lý gây ra do hút thuốc xuất hiện sớm.
Ở lứa tuổi trên 30, nếu hút thuốc thì tốc độ giảm FEV1 sẽ tăng gấp đôi so với người không hút thuốc. Những người hút thuốc ở tuổi càng trẻ thì thời gian hút để gây ra bệnh liên quan đến đường hô hấp càng ngắn so với những người bắt đầu hút ở tuổi muộn hơn.
Bệnh phổi tắc nghẽn mạn tính là nguyên nhân tử vong xếp hàng thứ tư trên thế giới (sau các bệnh mạch vành, ung thư và tai biến mạch máu não), thậm chí được dự báo sẽ “soán ngôi” thứ ba. Theo Tổ chức Y tế thế giới (WHO), năm 2012 có hơn 3 triệu người chết do bệnh này, chiếm 6% tổng số ca tử vong trên toàn cầu.
Tại Việt Nam tỷ lệ người mắc bệnh phổi tắc nghẽn mãn tính là 6,7% dân số (cao nhất trong 12 nước ở khu vực châu Á Thái Bình Dương); tỷ lệ mắc ở những người từ 40 tuổi trở lên là 4,2% (trong đó nam giới là 7,1% và nữ giới 1,9%).
Trong những thập kỷ tới, loại bệnh này sẽ tăng vì thế giới vẫn tiếp tục sự tiếp xúc với các yếu tố nguy cơ và lão hoá dân số. Phổi tắc nghẽn mạn tính gây khó thở do đường thở bị hẹp lại.
Có hai loại chính của căn bệnh quái ác này và một số người có thể mắc cùng lúc cả hai loại dưới đây: Thứ nhất là viêm phế quản mạn tính, đây là tình trạng viêm lớp niêm mạc của các ống phế quản. Các lớp lót trong các ống phế quản phổi bị đỏ, sưng và chứa đầy các chất nhầy.
Chất nhầy này làm hẹp đường thở của bệnh nhân. Thứ hai là khí phế thũng sẽ gây tổn hại các túi khí (phế nang) trong phổi và làm cho bệnh nhân dần khó thở hơn. Khi mất phế nang trong phổi, quá trình thải CO2 và hấp thu O2 sẽ trở nên khó khăn hơn.
Những triệu chứng
Thuốc lá là nguyên nhân quan trọng nhất gây ra bệnh phổi tắc nghẽn mạn tính, có khoảng 15% những người hút thuốc lá sẽ có triệu chứng lâm sàng của bệnh này và 80 - 90% người mắc là người nghiện thuốc lá. Hút thuốc lá làm cho các yếu tố nguy cơ khác của bệnh trở nên mạnh hơn. Đặc biệt, những người hút thuốc lá bị ảnh hưởng xấu hơn bởi ô nhiễm môi trường, nhiễm trùng và phơi nhiễm với các chất khói độc so với người không hút thuốc.
Người hút thuốc có tỷ lệ tử vong do bệnh phổi tắc nghẽn mạn tính cao gấp 10 lần so với người không hút thuốc. Ngoài ra còn có các nguyên nhân khác gây bệnh như: Khói, bụi hóa chất, ô nhiễm không khí trong nhà (đốt các nhiên liệu trong quá trình sưởi hoặc nấu ăn), ô nhiễm không khí ngoài trời, nhiễm trùng đường hô hấp dưới thường xuyên khi còn nhỏ.
Bệnh này có thể có các triệu chứng như: Ho kéo dài, ho có đờm, bị nhiễm trùng đường hô hấp tái đi tái lại (cúm và cảm lạnh), khó thở (đặc biệt khi gắng sức), cảm giác thắt chặt ở ngực, thở khò khè, mệt mỏi, sốt nhẹ và ớn lạnh. Một số triệu chứng nặng có thể cần phải điều trị tại bệnh viện, như: Bệnh nhân cảm thấy khó thở đến nỗi không thể nói chuyện được, môi hoặc móng tay chuyển sang màu xanh hoặc màu xám, rơi vào trạng thái lơ mơ, nhịp tim nhanh. Phổi tắc nghẽn mạn tính có nguy cơ bị các biến chứng sau: Rối loạn nhịp tim, suy tim, cao áp phổi, nhiễm trùng hô hấp.
Xây dựng lối sống lành mạnh
Không có cách chữa khỏi hoàn toàn bệnh này, phương pháp tốt nhất là phòng ngừa và làm giảm triệu chứng. Mục tiêu điều trị bao gồm: Giảm các triệu chứng, làm chậm tiến triển của bệnh, cải thiện khả năng gắng sức, ngăn ngừa và điều trị biến chứng. Tiêm vắc-xin ngừa bệnh cúm và phế cầu là biện pháp hữu hiệu giúp giảm nhiễm trùng hô hấp và làm chậm diễn tiến của bệnh.
Bạn cần xác lập cho mình chế độ sinh hoạt phù hợp, nhất là hãy nhanh chóng thay đổi lối sống và tuân thủ các phương pháp điều trị có thể giúp bệnh nhân giảm triệu chứng, lấy lại khả năng hoạt động bình thường và làm chậm tiến triển của bệnh. Đầu tiên hãy bỏ hút thuốc và tránh các chất kích thích phổi (ô nhiễm không khí, hơi hóa chất, bụi).
Khám sức khỏe thường xuyên, tái khám đúng hẹn và đầy đủ. Có chế độ ăn uống hợp lý và đầy đủ dưỡng chất và calo, thường xuyên vận động thể chất bằng cách tập thể dục, thể thao.