Cùng với nhiều quốc gia khác, Việt Nam và Mỹ đều cho rằng Biển Đông là địa bàn mang tính chiến lược cả về chính trị, luật pháp quốc tế, kinh tế, môi trường biển, an ninh. Là tuyến đường biển huyết mạch nối liền Thái Bình Dương và Ấn Độ Dương, Biển Đông đóng vai trò quan trọng trong bản đồ hàng hải toàn cầu và việc bất kỳ một quốc gia nào nổi lên khống chế hoàn toàn tuyến đường biển này sẽ không phù hợp với lợi ích của các nước hay của khu vực.
Trên thực tế, tình hình Biển Đông luôn tồn tại sự căng thẳng hay xung đột cục bộ và những năm gần đây liên tục chứng kiến sự leo thang trong các đòi hỏi về chủ quyền cũng như những hành động gây căng thẳng trong vấn đề Biển Đông. Trong khi đó, tại khu vực hiện đang thiếu những cơ chế hợp tác an ninh đủ mạnh để giúp xử lý một cách hiệu quả những vấn đề này theo đúng các nguyên tắc cơ bản của luật pháp quốc tế, nhất là nguyên tắc hòa bình giải quyết các tranh chấp.
Việt Nam và Mỹ đều cho rằng Biển Đông là địa bàn mang tính chiến lược cả về chính trị, luật pháp quốc tế, kinh tế, môi trường biển, an ninh.
Mặc dù không phải là quốc gia trực tiếp liên quan đến tranh chấp chủ quyền, Mỹ có nhiều lợi ích tương đồng với Việt Nam tại Biển Đông. Lợi ích nổi bật mà cả Việt Nam và Mỹ đều quan tâm nhiều là việc tiếp cận không bị cản trở tại Biển Đông theo đúng các quy định của luật pháp quốc tế. Việc tiếp cận không bị cản trở này liên quan mật thiết với việc khai thác các nguồn lực biển cũng như phục vụ cho đi lại của các tàu thuyền thương mại (với lượng hàng hóa trên 5 nghìn tỷ USD hàng năm; trong đó với Mỹ là hơn 1 nghìn tỷ USD) và quân sự tại Biển Đông.
Trong khi đó, với cách diễn giải luật pháp quốc tế và các hành động trên thực địa, Trung Quốc có xu hướng tăng cường áp đặt các hạn chế trong tự do hàng hải và hàng không tại hầu hết các khu vực ở Biển Đông. Lợi ích quan trọng khác mà cả Việt Nam và Mỹ đều chú trọng thúc đẩy là việc tăng cường hòa bình và ổn định tại Biển Đông và Đông Nam Á. Với lịch sử xung đột giữa các quốc gia liên quan Biển Đông cũng như việc các bên tiếp tục tăng cường tiềm lực quân sự, Biển Đông đã và đang tiềm ẩn các điểm nóng vốn có thể đe dọa hòa bình và ổn định.
Hợp tác Việt-Mỹ trong vấn đề Biển Đông là rất tích cực và còn nhiều tiềm năng để phát triển. Trong khi Mỹ về cơ bản tiếp tục dựa trên những nguyên tắc đã được nêu vào tháng 5/1995 (trước khi thiết lập quan hệ ngoại giao với Việt Nam), theo đó Mỹ tiếp tục thúc đẩy hòa bình giải quyết các tranh chấp, hòa bình và ổn định, tự do hàng hải, trung lập liên quan các tranh chấp, tôn trọng các nguyên tắc của luật pháp quốc tế, trên thực tế Mỹ ngày càng can dự nhiều hơn vào vấn đề Biển Đông một cách tích cực và tự nguyện.
Ngoài việc liên tục ra các tuyên bố chính sách, đề xuất các luật có liên quan đến khu vực và Biển Đông, Mỹ tiếp tục tăng cường sự hiện diện trên Biển Đông với các tàu hải quân và máy bay các loại (trong đó tàu sân bay của Mỹ đã hai lần ghé thăm cảng Việt Nam). Biển Đông luôn là một chủ đề quan trọng trong các đối thoại của nhiều cấp giữa Việt Nam và Mỹ cũng như trong các khuôn khổ hợp tác với khu vực.
Các công ty Mỹ như Exxon Mobil và Murphy Oil tiếp tục hợp tác thăm dò, khai thác dầu khí với Việt Nam và hợp tác quốc phòng liên quan Biển Đông tiếp tục được hai bên quan tâm (trong đó có việc Mỹ chuyển giao tàu tuần tra cỡ lớn cho Việt Nam)…
Ngoài ra, việc tăng cường hợp tác liên quan vấn đề Biển Đông góp phần tích cực vào việc giúp bảo vệ các quyền lợi chính đáng của cả Việt Nam, Mỹ và một số quốc gia Đông Nam Á khác liên quan đến xử lý tranh chấp, khai thác các nguồn lực từ biển, sử dụng các tuyến đường biển trong hội nhập quốc tế, tăng cường trao đổi thương mại… Việc Việt Nam và Mỹ tiếp tục quan tâm và tăng cường hợp tác liên quan Biển Đông đem lại nhiều lợi ích thiết thực. Trước hết, việc hợp tác này góp phần làm tăng sự quan tâm của khu vực đối với vấn đề Biển Đông, thúc đẩy tiến trình đối thoại tại các diễn đàn khu vực và quốc tế, tạo ra một cục diện cân bằng hơn trong việc hòa bình giải quyết các tranh chấp. Bên cạnh đó, mặc dù bản thân Mỹ chưa phê chuẩn Công ước Liên hợp quốc về Luật Biển 1982 do nhiều nguyên nhân (trong đó có các nguyên nhân liên quan chính trị nội bộ), việc Mỹ kiên trì thúc đẩy hợp tác trên cơ sở các nguyên tắc của Công ước tạo thuận lợi cho các quốc gia khu vực trong việc tìm tiếng nói chung trên cơ sở luật pháp quốc tế để hiện thực hóa các mô thức hành vi ứng xử tại Biển Đông.
Để góp phần thúc đẩy hòa bình, ổn định và hợp tác tại Biển Đông, Việt Nam và Mỹ còn nhiều dư địa để thúc đẩy hợp tác. Hai bên cần tiếp tục duy trì và thúc đẩy việc xây dựng một trật tự tại khu vực dựa trên luật lệ (mà sáng kiến Ấn Độ Dương–Thái Bình Dương tự do và rộng mở là một trong những ví dụ về tính sáng tạo liên quan trật tự khu vực), theo đó vấn đề Biển Đông cũng được giải quyết theo các nguyên tắc chung tích cực của luật pháp quốc tế.
Việt Nam và Mỹ cũng có thể cùng các quốc gia khu vực và trên thế giới tạo dựng một diễn đàn an ninh cấp cao thường niên để thảo luận và giải quyết các vấn đề phát sinh liên quan Biển Đông. Hai nước cũng có thể thúc đẩy những hợp tác liên quan việc tăng cường năng lực cho mỗi bên liên quan đào tạo, huấn luyện, diễn tập chung, trao đổi thông tin liên quan sự phát triển của Biển Đông, hợp tác kinh tế, nghiên cứu khoa học, bảo vệ môi trường biển, phòng chống khủng bố, cướp biển, cứu trợ thiên tai…
Trong tiến trình đó, việc công khai, minh bạch việc hợp tác và tích cực chia sẻ thông tin và kết nối hợp tác với các nước khu vực là rất cần thiết để làm giảm bớt những quan ngại và tranh thủ được các nguồn lực khác nhau và sự ủng hộ của cộng đồng quốc tế và khu vực.