Ảnh minh họa. Nguồn: Internet
Thứ nhất, do tầm quan trọng của các nguyên tắc xây dựng Đảng.
Đảng Cộng sản là đội tiên phong của giai cấp công nhân, có tổ chức chặt chẽ, thống nhất ý chí và hành động trên cơ sở những nguyên tắc tổ chức và hoạt động cơ bản được quy định trong Điều lệ Đảng. Đảng ta khẳng định: “Sự chặt chẽ về nguyên tắc là vấn đề sống còn của Đảng và bảo đảm quan trọng nhất cho sức sống, sự trong sạch và vững mạnh của Đảng”(2).
Kinh nghiệm lịch sử của phong trào cộng sản, công nhân quốc tế và của Đảng ta cho thấy, khi nào giữ vững các nguyên tắc xây dựng Đảng thì Đảng vững vàng, có đủ sức mạnh lãnh đạo cách mạng thành công và ngày càng phát triển; ngược lai, nếu Đảng nào mất cảnh giác, lơi lỏng, xa rời các nguyên tắc tổ chức và hoạt động cơ bản thì sẽ bị suy yếu, thậm chí tan rã.
Thứ hai, do việc thực hiện các nguyên tắc xây dựng Đảng trong thời gian vừa qua còn nhiều vi phạm.
Nhờ kiên định các nguyên tắc xây dựng Đảng mà Đảng ta đã vượt qua mọi thách thức, củng cố, phát triển đội ngũ đảng viên; giữ vững vai trò lãnh đạo của Đảng để đưa công cuộc đổi mới đạt được những thành tựu to lớn, có ý nghĩa lịch sử như hiện nay. Tuy nhiên, trong những năm qua có một bộ phận không nhỏ cán bộ, đảng viên, trong đó có cả cán bộ lãnh đạo, quản lý cao cấp đã suy thoái, vi phạm các nguyên tắc xây dựng Đảng, gây ra những hậu quả nghiêm trọng về kinh tế, xã hội, chính trị... Phần lớn trong số 110 cán bộ diện Trung ương quản lý bị xử lý kỷ luật trong nhiệm kỳ Đại hội ĐBTQ lần thứ XII là do vi phạm nguyên tắc xây dựng Đảng, chủ yếu là nguyên tắc tập trung dân chủ. Ba trong bốn Ủy viên Bộ Chính trị, nguyên Ủy viên Bộ Chính trị bị kỷ luật trong nhiệm kỳ Đại hội ĐBTQ lần thứ XII là do vi phạm nguyên tắc xây dựng Đảng gây hậu quả nghiêm trọng; tất cả các ban thường vụ cấp ủy bị Trung ương kỷ luật đều do vi phạm nguyên tắc này.
Việc vi phạm nguyên tắc tập trung dân chủ của một số cá nhân và tổ chức đảng thời gian vừa qua đã gây ra những hậu quả rất nghiêm trọng, gây thiệt hại tiền và tài sản của đất nước, của Nhân dân lên đến hàng nghìn tỉ đồng, trong đó có những thiệt hại không thể khắc phục được. Bởi vậy, đã đến lúc phải đề cao các nguyên tắc xây dựng Đảng để ngăn chặn quyết liệt từ sớm, từ xa các vi phạm tương tự trong thời gian vừa qua.
Thứ ba, do yêu cầu của tình hình, nhiệm vụ trong thời kỳ mới.
Đổi mới, phát triển kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, hội nhập quốc tế là quá trình chuyển đổi rộng lớn, đòi hỏi sự tìm tòi, thử nghiệm mới mẻ, đan xen cả thời cơ và thách thức lớn đối với Đảng cầm quyền. Trong quá trình đó, để giữ vững vai trò lãnh đạo, mục tiêu đổi mới, phòng tránh sai lầm, chệch hướng, đòi hỏi toàn Đảng, từ tổ chức đến mỗi cán bộ, đảng viên, hơn bao giờ hết phải nhận thức đúng và kiên định thực hiện các nguyên tắc xây dựng Đảng.
Giải pháp thực hiện có hiệu quả các nguyên tắc xây dựng Đảng theo quan điểm Nghị quyết Đại hội XIII của Đảng
Một là, cần nhận thức đầy đủ, đúng đắn nội dung, yêu cầu của các nguyên tắc xây dựng Đảng.
Một trong những nguyên nhân dẫn đến tình trạng xem nhẹ hay cố tình vi phạm các nguyên tắc xây dựng Đảng trong thời gian qua là do nhận thức chưa đầy đủ, sâu sắc nội dung, yêu cầu của các nguyên tắc đó. Vì vậy, để kiên định các nguyên tắc xây dựng Đảng theo quan điểm Đại hội ĐBTQ lần thứ XIII của Đảng phải làm cho mỗi cán bộ, đảng viên có nhận thức đầy đủ, đúng đắn nội dung, yêu cầu của các nguyên tắc xây dựng Đảng.
Xây dựng Đảng là tổng thể các mặt công tác, các hoạt động chính trị, tư tưởng, tổ chức, kiểm tra, giám sát... để làm cho Đảng trong sạch, vững mạnh về chính trị, tư tưởng, đạo đức, tổ chức và cán bộ, đáp ứng yêu cầu lãnh đạo sự nghiệp cách mạng. Để làm tốt công tác xây dựng Đảng phải tuân thủ các nguyên tắc xây dựng Đảng. Điều lệ Đảng quy định: “Đảng là một tổ chức chặt chẽ, thống nhất ý chí và hành động, lấy tập trung dân chủ làm nguyên tắc tổ chức cơ bản, thực hiện tập thể lãnh đạo, cá nhân phụ trách, thương yêu đồng chí, kỷ luật nghiêm minh, đồng thời thực hiện các nguyên tắc: tự phê bình và phê bình, đoàn kết trên cơ sở Cương lĩnh chính trị và Điều lệ Đảng, gắn bó mật thiết với nhân dân, Đảng hoạt động trong khuôn khổ Hiến pháp và pháp luật”(3).
Năm nguyên tắc lớn trong công tác xây dựng Đảng là: tập trung dân chủ; tự phê bình và phê bình; đoàn kết thống nhất; Đảng gắn bó mật thiết với Nhân dân; Đảng hoạt động trong khuôn khổ Hiến pháp và pháp luật. Đây không phải là những nguyên tắc riêng rẽ, mà là một hệ thống những nguyên tắc có mối quan hệ chặt chẽ với nhau trong thực tiễn xây dựng và hoạt động của Đảng. Cụ thể là:
Nguyên tắc tập trung dân chủ: là nguyên tắc thống nhất, quy định cách tổ chức, hoạt động của Đảng, trong đó, tập trung phải trên cơ sở dân chủ, dân chủ phải đi đôi với tập trung; đảng viên bình đẳng về quyền và trách nhiệm; các cơ quan lãnh đạo của Đảng do bầu cử lập ra; nghị quyết của Đảng được quyết định theo đa số; thiểu số phục tùng đa số; tổ chức đảng cấp dưới phục tùng tổ chức đảng cấp trên; đảng viên phải chấp hành nghị quyết của Đảng..., nhằm đảm bảo cho Đảng là một tổ chức chặt chẽ, thống nhất ý chí và hành động, kỷ luật nghiêm minh.
Trong nguyên tắc tập trung dân chủ, tập trung và dân chủ quy định lẫn nhau. Tập trung mà không có dân chủ thì sẽ trở thành tập trung quan liêu, chuyên quyền, độc đoán; còn dân chủ mà không đi tới tập trung thì sẽ rơi vào tình trạng dân chủ vô tổ chức, hỗn loạn. Nội dung cơ bản của nguyên tắc tập trung dân chủ trong Đảng được quy định tại Điều 9 Điều lệ Đảng. Các cấp ủy, tổ chức đảng và mỗi cán bộ, đảng viên cần nghiên cứu kỹ để nắm vững các quy định này.
Cần lưu ý nguyên tắc tập trung dân chủ quy định chế độ làm việc, ra quyết định đặc thù của Đảng. Nếu như trong chế độ thủ trưởng, người đứng đầu được tự quyết định và chịu trách nhiệm về quyết định của mình thì trong Đảng, người đứng đầu cấp ủy phải theo chế độ lãnh đạo tập thể, các quyết định lãnh đạo phải được thảo luận và quyết định theo đa số. Vừa qua, nhiều cán bộ lãnh đạo, quản lý đồng thời là người đứng đầu cấp ủy đã vi phạm nguyên tắc tập trung dân chủ ở nội dung này, áp đặt, thiếu dân chủ trong lãnh đạo, chỉ đạo, không bàn bạc, thảo luận trong tập thể lãnh đạo, dẫn đến quyết định chủ trương không đúng quy định, vượt thẩm quyền, vi phạm nghị quyết của tập thể lãnh đạo, quy chế làm việc của cấp ủy, gây thiệt hại rất lớn về kinh tế, ảnh hưởng xấu tới tình hình chính trị, xã hội và uy tín của Đảng.
Nguyên tắc tập trung dân chủ quy định tổ chức đảng các cấp quyết định các vấn đề thuộc phạm vi quyền hạn của mình, tuy nhiên không được nhân danh tổ chức đảng ra nghị quyết trái với nguyên tắc, chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước và nghị quyết của cấp trên. Vừa qua, không ít cấp ủy đảng đã vi phạm quy định này.
Nguyên tắc tự phê bình và phê bình: tự phê bình và phê bình trong Đảng là hoạt động của tổ chức đảng và đảng viên chủ động chỉ ra ưu điểm để phát huy và nhận thức rõ khuyết điểm để khắc phục, nhằm làm cho đảng viên và tổ chức đảng luôn giữ vững vai trò là người chiến sĩ tiên phong, người lãnh đạo. Chủ tịch Hồ Chí Minh khẳng định: “Người đời ai cũng có khuyết điểm. Có làm việc thì có sai lầm”(4). Bởi vậy, “Về luật phát triển, Đảng Lao động Việt Nam dùng lối tự phê bình và phê bình để giáo dục đảng viên, giáo dục quần chúng”(5). Mặt khác, Người căn dặn đối với mỗi cán bộ, đảng viên: khuyết điểm cũng như chứng bệnh. Phê bình cũng như uống thuốc. Sợ phê bình, cũng như có bệnh mà giấu bệnh. Không dám uống thuốc. Để đến nỗi bệnh ngày càng nặng, không chết “cũng la lết quả dưa”(6).
Trong nguyên tắc tự phê bình và phê bình cần chú ý tự phê bình và phê bình diễn ra trong phạm vi sinh hoạt đảng. Chỉ trong sinh hoạt đảng thì đảng viên mới được lấy tư cách là đảng viên để phê bình đồng chí của mình và phê bình các tổ chức của Đảng. Ngoài phạm vi sinh hoạt đảng thì không được nhân danh đảng viên để phê bình đồng chí và tổ chức đảng của mình. Mục đích của tự phê bình và phê bình là nhằm giáo dục, rèn luyện đảng viên, làm cho bản thân và đồng chí của mình không ngừng tiến bộ; phê bình không phải để nói xấu; đả kích, hạ uy tín của đồng chí mình mà hơn hết là phải mang tính chất xây dựng. Chủ tịch Hồ Chí Minh căn dặn: “Mục đích phê bình cốt để giúp nhau sửa chữa, giúp nhau tiến bộ”(7). Tự phê bình và phê bình làm cho nội bộ tổ chức đảng mạnh lên, đoàn kết thống nhất được củng cố, chống chia rẽ, bè phái.
Nguyên tắc đoàn kết thống nhất: đoàn kết thống nhất tức là trong nội bộ không có phe nhóm; là sự bàn bạc, thảo luận dân chủ mọi công việc của tổ chức đó; khi nghị quyết ban hành theo đa số của những người có ý thức tổ chức thì mọi thành viên phải tự giác chấp hành vô điều kiện. Chủ tịch Hồ Chí Minh nhấn mạnh, đoàn kết thống nhất trong Đảng có nghĩa là không có tình trạng “trống đánh xuôi, kèn thổi ngược”; Đảng tuy nhiều người nhưng khi tiến đánh chỉ như một người; không có tình trạng kèn cựa địa vị, nói xấu lẫn nhau... Đảng Cộng sản Việt Nam chỉ rõ đoàn kết thống nhất trong Đảng: “Đó là sự thống nhất về chính trị, tư tưởng và tổ chức, thống nhất ý chí và hành động dựa trên đường lối cách mạng đúng đắn và những nguyên tắc tổ chức của đảng vô sản”(8). Hạt nhân của khối đoàn kết, thống nhất trong Đảng là Ban Chấp hành Trung ương Đảng, là cấp ủy đảng các cấp.
Đoàn kết thống nhất là nguồn sức mạnh vô địch của Đảng, là then chốt của thành công. Đảng quy định đoàn kết thống nhất là một nguyên tắc tổ chức, hoạt động của Đảng, là sinh mệnh của Đảng, là “vấn đề sống còn của cách mạng(9). Do đó, “chia rẽ, bè phái phải coi là phạm tội lớn nhất đối với Đảng(10).
Nguyên tắc Đảng gắn bó mật thiết với Nhân dân: nguyên tắc này yêu cầu mọi tổ chức đảng, đảng viên phải thường xuyên liên hệ, lắng nghe, tuyên truyền, vận động Nhân dân; phục vụ Nhân dân; dựa vào Nhân dân để tổ chức và hoạt động. Phải kiên quyết ngăn ngừa và khắc phục tình trạng quan liêu, xa rời Nhân dân. Mọi cán bộ, đảng viên phải thực hiện nghiêm nhiệm vụ công tác dân vận, chế độ phụ trách cơ sở, đi cơ sở, tiếp dân.
Nguyên tắc Đảng hoạt động trong khuôn khổ Hiến pháp, pháp luật: nguyên tắc này yêu cầu mọi tổ chức đảng, đảng viên phải tôn trọng và hoạt động theo quy định của Hiến pháp, pháp luật. Nguyên tắc này không phải là làm hạ thấp vị trí, vai trò của Đảng mà chính là bảo đảm thực hiện tốt đường lối, chủ trương, chính sách của Đảng trong điều kiện Đảng cầm quyền. Thực chất Đảng hoạt động trong khuôn khổ Hiến pháp và pháp luật chính là quá trình chấp hành, thực hiện các nghị quyết, chỉ thị của Đảng. Đảng ta khẳng định: “Trong điều kiện Đảng cầm quyền, lãnh đạo quản lý kinh tế và tổ chức đời sống, đường lối, chính sách và các nghị quyết của Đảng được biến thành kế hoạch Nhà nước, thành pháp luật, mệnh lệnh, quy chế của Nhà nước. Vì thế, chấp hành kế hoạch, pháp luật, mệnh lệnh, quy chế của Nhà nước cũng chính là chấp hành đường lối và các nghị quyết của Đảng”(11).
Để thực hiện đúng nguyên tắc Đảng hoạt động trong khuôn khổ Hiến pháp và pháp luật, các tổ chức đảng cần chú ý khi quyết định các vấn đề thuộc phạm vi quyền hạn của mình thì không được ra nghị quyết, chỉ thị trái với Hiến pháp và pháp luật. Cán bộ, đảng viên phải gương mẫu tuân thủ Hiến pháp và pháp luật. Các đảng viên đảm nhận các chức vụ lãnh đạo và thực hiện công vụ theo chế độ trách nhiệm luật pháp quy định, không được lợi dụng quyền uy của Đảng, đặt mình lên trên pháp luật để làm trái Hiến pháp và pháp luật.
Hai là, cụ thể hóa, quy chế hóa, chế độ hóa các nguyên tắc xây dựng Đảng.
Các nguyên tắc xây dựng Đảng có tính khái quát cao, bao quát rộng và có nguyên tắc khá trừu tượng, dễ bị bóp méo. Một nguyên nhân làm cho việc thực hiện các nguyên tắc xây dựng Đảng thời gian qua chưa tốt là do những quy định thực hiện các nguyên tắc xây dựng Đảng vẫn còn chung chung, thiếu những quy định cụ thể, dẫn đến sự tùy tiện, bóp méo nguyên tắc trong quá trình thực hiện. Vì vậy, cần tiếp tục đẩy mạnh việc cụ thể hóa, thể chế hóa các nguyên tắc xây dựng Đảng thành quy chế, quy định trong Đảng và pháp luật của Nhà nước. Hướng cụ thể hóa, quy chế hóa các nguyên tắc là áp dụng vào từng mặt công tác xây dựng Đảng về chính trị, tư tưởng, đạo đức, tổ chức, cán bộ và tập trung vào những nguyên tắc, những lĩnh vực thường xảy ra vi phạm, cụ thể là:
Đối với nguyên tắc tập trung dân chủ, cần tiếp tục cụ thể hóa vào quy chế làm việc của cấp ủy, các quy chế, quy định trong công tác tư tưởng, cán bộ, tổ chức, lãnh đạo. Cần tập trung xây dựng cơ chế kiểm soát quyền lực, cụ thể hóa, lượng hóa trách nhiệm, quyền hạn của người đứng đầu, cán bộ phụ trách; mối quan hệ giữa tập thể lãnh đạo với người đứng đầu; chế độ bảo lưu ý kiến thiểu số.
Đối với nguyên tắc tự phê bình và phê bình, phải tiếp tục thực hiện và bổ sung hoàn thiện quy định về chế độ tự phê bình và phê bình của cán bộ, đảng viên; về chế độ chất vấn; về khuyến khích, bảo vệ người phê bình, tố cáo.
Đối với nguyên tắc đoàn kết thống nhất, cần có quy chế về chế độ thảo luận và xử lý những nội dung, các ý kiến còn khác nhau; nghiên cứu quy định về những dấu hiệu nhận biết mất đoàn kết trong Đảng.
Đối với nguyên tắc Đảng gắn bó mật thiết với Nhân dân, cần tiếp tục xây dựng, hoàn thiện quy chế, quy định về chế độ phân công cấp ủy viên phụ trách cơ sở; chế độ tiếp dân; chế độ Nhân dân tham gia xây dựng Đảng.
Đối với nguyên tắc Đảng hoạt động trong khuôn khổ Hiến pháp, pháp luật, cần chú trọng bổ sung, hoàn thiện thêm các điều cấm đối với đảng viên liên quan đến thực hiện Hiến pháp, pháp luật.
Ba là, nêu cao tinh thần tự giác, gương mẫu thực hiện đúng các nguyên tắc xây dựng Đảng của cán bộ, đảng viên.
Dù quy định, quy chế về các nguyên tắc xây dựng Đảng đầy đủ nhưng cán bộ, đảng viên không tự giác, gương mẫu thực hiện thì vẫn xảy ra vi phạm. Vì vậy, trên cơ sở nhận thức đúng về các nguyên tắc xây dựng Đảng, cần chú trọng nêu cao tinh thần trách nhiệm, tự giác, gương mẫu thực hiện đúng các nguyên tắc xây dựng Đảng của cán bộ, đảng viên. Mỗi cán bộ, đảng viên cần nhận thức việc kiên định thực hiện đúng các nguyên tắc xây dựng Đảng vừa là trách nhiệm, vừa là cách tốt nhất để bảo vệ mình khỏi các sai phạm trong quá trình làm việc, công tác.
Bốn là, tăng cường kiểm tra, giám sát thực hiện các nguyên tắc xây dựng Đảng.
Cấp ủy cần có chương trình kiểm tra, giám sát về thực hiện các nguyên tắc xây dựng Đảng. Thông qua kiểm tra, giám sát để kịp thời phát hiện những thiếu sót, sơ hở trong quy định thực hiện các nguyên tắc xây dựng Đảng và sửa đổi, bổ sung, hoàn thiện; đồng thời giáo dục, ngăn chặn kịp thời các khuyết điểm, sai phạm của đảng viên. Cấp ủy, ủy ban kiểm tra các cấp cần hướng vào kiểm tra tổ chức đảng, đảng viên khi có dấu hiệu vi phạm các nguyên tắc xây dựng Đảng để giáo dục, ngăn chặn, không chờ vụ việc xảy ra mới kiểm tra, nhất là những nơi có biểu hiện mất đoàn kết nội bộ, vi phạm nghiêm trọng nguyên tắc tập trung dân chủ. Mặt khác, phải coi trọng việc xem xét xử lý kỷ luật nghiêm minh, kịp thời đối với những tổ chức đảng, cán bộ, đảng viên cố tình không chấp hành chỉ thị, nghị quyết, tham nhũng, gây chia rẽ, bè phái, làm suy yếu khối đoàn kết thống nhất trong Đảng, quan liêu, vi phạm pháp luật, bị dư luận phê phán, làm mất lòng tin của Nhân dân./.
-----------------------------------
Ghi chú:
(1) Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, tập I, Nxb CTQG-ST, H.2021, tr.109.
(2) Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đảng toàn tập, tập 37, Nxb CTQG, H.2004, tr.772.
(3) Điều lệ Đảng Cộng sản Việt Nam, Nxb CTQG-ST, H.2011, tr.5.
(4),(6),(7) Hồ Chí Minh, Toàn tập, tập 5, Nxb CTQG- ST, H.2011, tr.323, tr.301, tr.272.
(5) Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đảng toàn tập, tập 12, Nxb CTQG, H.2001, tr.37.
(8),(11) Đảng Cộng sản Việt Nam, Báo cáo tổng kết công tác xây dựng Đảng và sửa đổi Điều lệ Đảng (tại Đại hội IV), Nxb Sự thật, H.1977, tr.31, tr.100.
(9) Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VI, Nxb Sự thật, H.1977, tr.143.
(10) Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ V, tập III, Nxb Sự thật, H.1982, tr.62.
PGS.TS Nguyễn Văn Giang - Viện Xây dựng Đảng, Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh