Việt Nam cần khai thác mạnh mẽ hơn nữa tiềm năng ngành nuôi biển .
Tiềm năng lớn
Theo báo cáo của Tổng cục Thủy sản, tổng diện tích có tiềm năng nuôi biển ở nước ta khoảng 500.000 ha(5.000 km2 ), trong đó vùng bãi triều 153.300 ha; vùng vũng vịnh, eo ngách và ven đảo là 79.790 ha và vùng biển xa bờ gần 167.000 ha, diện tích còn lại là các hình thức nuôi khác. Giai đoạn 2010 - 2019, nuôi biển đã có những bước phát triển đáng kể, diện tích và sản lượng đã không ngừng tăng. Cụ thể, tổng diện tích nuôi biển năm 2010 đạt 38.800 ha, đến năm 2019 đạt trên 256.000 ha với tốc độ tăng trưởng bình quân đạt 23,3%/năm. Năm 2010, sản lượng nuôi biển chỉ đạt hơn 156.000 tấn, đến năm 2019 đạt gần 598.000 tấn, với tốc độ tăng trưởng bình quân 16%/năm.
Hiện người dân và doanh nghiệp áp dụng hình thức nuôi biển ngày càng nhiều chủng loại hơn, có thể kể đến như: nhóm nhuyễn thể (ngao/nghêu, sò, hàu, vẹm xanh, tu hài, bào ngư, trai ngọc, ốc hương,..); nhóm cá biển (cá song, cá giò, cá hồng, cá vược, cá tráp, cá chim vây vàng, cá sủ đất, cá măng biển..); nhóm giáp xác (tôm hùm, cua, ghẹ...); nhóm rong tảo biển (rong câu, rong nho, rong sụn, vi tảo biển…), nhóm da gai (hải sâm), các sinh vật cảnh nước mặn…Đây chính là cơ hội lớn để phục hồi hệ sinh thái đang ngày một bị phá huỷ nghiêm trọng bởi khai thác quá mức của con người.
Với tốc độ phát triển mạnh, trên cả nước hiện có 51 cơ sở sản xuất giống cá biển, sản xuất được 509 triệu con mỗi năm. Đối với các đối tượng cua, ghẹ, hiện nay công nghệ sinh sản nhân tạo đã được hoàn thiện và đã chuyển giao công nghệ sản xuất giống cho nhiều địa phương đã góp phần vào việc phát triển nuôi cua, ghẹ thương phẩm. Song cũng còn một số loại hải sản cho giá trị cao vẫn chưa có công nghệ sản xuất giống thương phẩm như tôm hùm, nguồn tôm giống chủ yếu phụ thuộc vào khai thác tự nhiên và nhập khẩu, không ổn định về số lượng và chưa đảm bảo về chất lượng, đem đến rủi ro lớn cho người nuôi.
Quy mô và đầu tư còn hạn chế
Trong thời gian qua, mặc dù đã có những bước phát triển, nghề nuôi biển nước ta hiện vẫn còn manh mún, ở quy mô nhỏ lẻ nên chưa khai thác hết tiềm năng và lợi thế tự nhiên vốn có. Bên cạnh đó, đầu tư cơ sở hạ tầng phục vụ nuôi biển còn nhiều hạn chế, dàn trải, thiếu đồng bộ. Việc quản lý và sử dụng các công trình, các dự án đầu tư còn nhiều hạn chế, hiệu quả chưa cao, nhiều dự án sau khi xây dựng đưa vào hoạt động chưa đạt được theo công suất thiết kế.
Theo thống kê, Việt Nam có trên 1 triệu km2 diện tích vùng biển đặc quyền kinh tế, trong khi diện tích nuôi biển của nước ta đến nay chưa đạt tới 300.000 ha, mới chỉ chiếm khoảng hơn 20% tổng diện tích nuôi trồng thủy sản cả nước (1.140.000 ha theo số liệu của Tổng cục Thống kê). Như vậy, nuôi biển còn rất nhiều dư địa để phát triển, trong khi đó, hoạt động nuôi biển đến nay vẫn còn manh mún, tự phát, thường xuyên phá vỡ quy hoạch.
Đối với nguồn giống nuôi, Việt Nam cũng chỉ sản xuất được một số giống cá biển với quy mô nhỏ lẻ, nguồn cung chủ yếu vẫn phụ thuộc vào nhập khẩu qua đường tiểu ngạch với chất lượng bấp bênh. Bên cạnh đó, những khó khăn trong khâu cung cấp thức ăn do các mô hình nuôi truyền thống, sử dụng nguồn thức ăn chủ yếu từ cá tươi (cá tạp). Nguồn thức ăn này không mang tính bền vững, gây nhiều ảnh hưởng đến môi trường và có thể dẫn đến khan hiếm nguồn cá tạp tự nhiên, do nhu cầu lớn dẫn đến khai thác quá mức mà hiệu quả nuôi lại không cao, chi phí phát sinh lớn do giá thành thay đổi theo mùa.
Đặc biệt, nuôi biển tại Việt Nam hiện nay chủ yếu theo quy trình nuôi lồng bè truyền thống gần bờ, hạ tầng nuôi còn nhiều yếu kém, thiếu quy hoạch và chính sách quản lý tốt dẫn đến tình trạng phải đối mặt với nhiều rủi ro thách thức, rõ nhất là suy thoái môi trường. Một số vùng nuôi hiện nay đang có dấu hiệu ô nhiễm nặng do độ sâu và tốc độ dòng chảy thấp, mật độ các lồng nuôi quá cao, chất thải sinh hoạt và chất thải từ hoạt động nuôi quá lớn, chưa kể những mâu thuẫn trong sử dụng mặt nước giữa nuôi biển và các ngành kinh tế khác như du lịch, vận tải biển,…
Cần một quyết sách mạnh mẽ cho nghề nuôi biển
Theo PGS.TS Nguyễn Hữu Dũng - Chủ tịch Hiệp hội Nuôi biển Việt Nam, nuôi biển là trọng tâm đột phá phát triển thủy sản trong 10 năm tới. Đây chính là dư địa lớn nhất còn lại của thủy sản trong thời gian tới, nếu không phát triển lĩnh vực này, chắc chắn sẽ không có được sự đột phá trong ngành thủy sản, đồng thời cũng là cơ hội tái tạo lại nguồn lợi thuỷ sản, đa dạng sinh học biển.
Để có sự đột phá, TS Nguyễn Hữu Dũng cho rằng, cần hoàn thiện thể chế chính sách liên quan đến nuôi biển, với việc Chính phủ sớm phê duyệt Đề án phát triểnnuôi biển Việt Nam đến 2030, tầm nhìn 2045. Trong phát triển nuôi biển, cần áp dụng tối đa khoa học công nghệ tiên tiến trên thế giới vào thực tiễn nghề nuôi. Bên cạnh đó, để nâng cao hiệu quả, nuôi biển cần kết hợp với các ngành kinh tế biển có liên quan như dầu khí, du lịch, điện gió, đóng tàu, tài nguyên và môi trường…để chia sẻ năng lực, hợp tác kỹ thuật, công nghệ để phát triển nuổi biển.
Thứ trưởng Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn Phùng Đức Tiến, trong cuộc Hội thảo gần đây với Hiệp hội nuôi biển cũng nhấn mạnh, tiềm năng nuôi biển của Việt Nam rất lớn, đặc biệt trong bối cảnh nguồn lợi thủy sản ngày càng cạn kiệt, nguyên liệu phục vụ cho chế biến xuất khẩu phụ thuộc vào nhập khẩu từ nước ngoài, do vậy nước ta phải nhanh chóng chuyển hướng sang phát triển nuôi biển theo hướng công nghiệp hiện đại, bền vững.
Để hiện thực hóa các mục tiêu trong phát triển nuôi biển theo hướng bền vững, trở thành một trong những trụ cột chính trong phát triển ngành thủy sản trong thời gian tới, Thứ trưởng Phùng Đức Tiến yêu cầu các cơ quản lý nhà nước, địa phương, các đơn vị nghiên cứu, doanh nghiệp tập trung một số giải pháp như: Tập trung hoàn thiện thể chế chính sách đồng bộ cho phát triển nuôi biển bền vững, tổ chức triển khai thực hiện Luật Thủy sản sửa đổi năm 2017, chính sách giao khu vực biển và các quy định hiện hành, tạo điều kiện thuận lợi để doanh nghiệp, người nuôi biển được tiếp cận các công cụ chính sách, khuyến khích các nhà đầu tư tham gia chuỗi giá trị nuôi biển. Đồng thời, hoàn thiện cơ chế, chính sách bảo hiểm.
Bên cạnh đó, cần tập trung nghiên cứu và phát triển các công nghệ mới vào nuôi biển, chế biến, chiết xuất các vi chất từ sản phẩm nuôi biển, phụ phẩm chế biến, nâng cao giá trị gia tăng của nuôi biển. Xây dựng hệ thống thông tin, dự báo phân tích thị trường, kết nối cung cầu, vận động, tạo điều kiện cho các chủ thể nuôi tích cực tham gia chuyển đổi số nghề nuôi biển nói riêng, ngành thủy sản nói chung, tạo động lực mới cho phát triển nuôi biển bền vững.
Cần hình thành và triển khai thực hiện một chương trình KHCN tập trung nghiên cứu, chuyển giao các tiến bộ kỹ thuật về giống, công nghệ nuôi, thức ăn, phòng chống dịch bệnh, công nghệ sơ chế, bảo quản, chế biến sâu các sản phẩm nuôi biển; thu hút nguồn lực trong và ngoài nước phát triển công nghiệp sản xuất thức ăn nuôi biển công nghiệp, đảm bảo thức ăn có chất lượng cao, giá thành hợp lý, đảm bảo không ảnh hưởng tới môi trường biển.