Ảnh minh họa
Phát biểu đề dẫn hội thảo, Phó Tổng biên tập Tạp chí Cộng sản Vũ Trọng Lâm cho rằng miền Trung là địa bàn chiến lược quan trọng về chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội, quốc phòng, an ninh; là "mặt tiền" của quốc gia, "khúc ruột" của Tổ quốc, là "cửa ngõ" ra biển cho các tỉnh Tây Nguyên. Con người miền Trung rất cần cù, chịu khó, năng động, sáng tạo, có ý chí và khát vọng vươn lên.
Đặc biệt, miền Trung có rất nhiều tiềm năng, lợi thế về biển, phát triển kinh tế biển mà không một vùng nào có được. Vùng có 14 tỉnh, thành phố thì tất cả đều có biển, trong đó có nhiều bãi biển, vùng biển, đảo rất đẹp, nhiều tài nguyên vào loại nhất cả nước.
Những năm qua, các tỉnh, thành phố miền Trung đều đã có nhiều chủ trương, chính sách và dành một nguồn lực rất lớn để đầu tư phát triển kinh tế biển; nhờ đó, diện mạo của vùng miền Trung đã có nhiều thay đổi tích cực và vùng đang trở thành một khu vực phát triển khá năng động, một đầu cầu quan trọng của cả nước trong hợp tác và hội nhập quốc tế.
Một số địa phương trong vùng đã khai thác, tận dụng và phát huy tiềm năng, lợi thế về kinh tế biển để vươn lên mạnh mẽ, từng bước trở thành các cực tăng trưởng, hướng tới là trung tâm của vùng và các tiểu vùng. Khoảnh cách phát triển của vùng so với mức trung bình của cả nước đang dần được thu hẹp. Văn hóa, xã hội, đời sống vật chất và tinh thần của người dân khu vực ngày càng được nâng cao.
Tuy nhiên, theo ông Vũ Trọng Lâm, vùng Bắc Trung Bộ và duyên hải miền Trung hiện vẫn là vùng có nhiều chỉ số phát triển thấp hơn mức trung bình của cả nước. Nhiều tiềm năng, lợi thế của vùng, nhất là lợi thế về kinh tế biển chưa được khai thác, phát huy hiệu quả để trở thành một nguồn nội lực quan trọng cho phát triển. Các khu kinh tế ven biển, cảng biển phát triển chưa tương xứng với tiềm năng, lợi thế. Du lịch phát triển chưa bền vững, thiếu đa dạng, sức cạnh tranh quốc tế còn thấp. Liên kết phát triển vùng còn lỏng lẻo, lúng túng, bị động…
Trong bối cảnh thế kỷ XXI được coi là thế kỷ của biển và đại dương, nhiều quốc gia và cường quốc trên thế giới đều coi biển, hướng ra biển và tập trung vào chiến lược biển để củng cố và tăng cường sức mạnh tổng hợp quốc gia, thì việc chúng ta quán triệt và thực hiện tốt Nghị quyết số 36-NQ/TW "Về chiến lược phát triển bền vững kinh tế biển Việt Nam đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2045" có vai trò đặc biệt quan trọng đối với việc thực hiện thành công mục tiêu, khát vọng phát triển đất nước phồn vinh, hạnh phúc.
Trong chiến lược đó, phát triển kinh tế biển miền Trung có ý nghĩa và vai trò quyết định, bởi đây là khu vực có 14/28 tỉnh, thành phố giáp biển của cả nước, với bờ biển dài gần 1.800 km, chiếm hơn 55% bờ biển của cả nước (3.260 km). Do vậy, phát triển kinh tế biển ở khu vực miền Trung có thể nói là giữ vai trò quan trọng quyết định đối với việc thực hiện chiến lược biển nói chung, Nghị quyết số 36-NQ/TW về chiến lược phát triển kinh tế biển nói riêng.
Tại hội thảo, nhiều ý kiến của các chuyên gia, nhà khoa học cũng khuyến nghị nhiều nội dung khác để phát triển kinh tế biển miền Trung nhanh, bền vững. Tiến sĩ Nguyễn Dũng Anh, Học viện Chính trị khu vực III, đề xuất một số giải pháp về cải cách thể chế, trong đó nhấn mạnh việc nâng cao chất lượng quy hoạch không gian phát triển kinh tế vùng biển ở các tỉnh miền Trung đến năm 2030, định hướng đến năm 2045 theo hướng bền vững.
Đồng thời, hoàn thiện thể chế liên kết nhằm bảo đảm sự thống nhất, hiệu lực, hiệu quả về quy hoạch và đầu tư phát triển kinh tế - xã hội nói chung, phát triển kinh tế biển của các tỉnh miền Trung nói riêng. Điều này sẽ khắc phục được tình trạng phân bổ nguồn lực dàn trải, phân tán dẫn tới lãng phí, sử dụng kém hiệu quả. Trong đó, chú trọng xây dựng bộ máy có tính pháp lý để thực hiện việc hoạch định, tổ chức thực thi các chính sách phát triển vùng, liên quan đến vùng.
Bên cạnh đó, cần hoàn thiện môi trường đầu tư nhằm huy động các nguồn lực phục vụ phát triển kinh tế biển. Hình thành "vành đai du lịch dịch vụ, giải trí cao cấp" nhằm khai thác tiềm năng du lịch, tài nguyên biển vùng Trung Bộ có tính liên kết, hiệu quả, bền vững. Xây dựng, phát triển hệ thống đô thị, nhất là các đô thị ven biển bền vững và đồng bộ về mạng lưới liên kết với các đô thị trong vùng, toàn quốc và quốc tế. Thu hút các dự án lớn đầu tư xây dựng đô thị ven biển nhằm cải thiện, nâng cấp hệ thống cơ sở hạ tầng hiện hữu để tăng tính liên kết trong phát triển các ngành du lịch, dịch vụ, thương mại.
Để hiện thực khát vọng "mạnh về biển, giàu từ biển" trong điều kiện thực tiễn của Vùng duyên hải miền Trung, TS. Huỳnh Minh Sơn, Đại học Đà Nẵng cho rằng để hiện thực hoá các mục tiêu nghị quyết, chủ trương, chính sách về kinh tế biển, cần có đề án phát triển nguồn nhân lực kinh tế biển, bám sát yêu cầu thực tiễn mỗi địa phương, gắn với quy hoạch tổng thể và hài hoà với lợi ích chung của toàn vùng và đất nước.
"Các dự án phát triển kinh tế biển theo đó cần được chuẩn bị huy động trí tuệ, tham vấn, phản biện, chuyên gia (trường, viện, cơ quan, doanh nghiệp, tổ chức nghề nghiệp) dựa trên các nghiên cứu, khảo sát, dự báo cung-cầu từ đó là cơ sở để đặt hàng, xác định chỉ tiêu tuyển sinh, mở ngành nghề mới hoặc chuyển dịch các ngành, nội dung chương trình đào tạo phù hợp yêu cầu thực tiễn các địa phương, doanh nghiệp cũng như cụ thể hoá trong các dự án kèm theo, đó là Đề án bảo đảm phát triển nguồn nhân lực mới có tính khả thi, thuyết phục".
Nhấn mạnh đến công tác bảo đảm nguồn thu nhập, sinh kế của ngư dân khai thác thủy sản vùng ven biển, theo TS. Hoàng Hồng Hiệp, Quyền Viện trưởng Viện Khoa học xã hội Vùng Trung Trung Bộ, các địa phương cần thúc đẩy mạnh mẽ hơn nữa quá trình chuyển đổi với quy mô hợp lý ngành khai thác thủy sản của cộng đồng ngư dân theo hướng bền vững. Điều này vừa có thể góp phần nâng cao thu nhập cho các hộ ngư dân, giảm thiểu tình trạng cạn kiệt tài nguyên môi trường vùng ven bờ, vừa góp phần bảo vệ chủ quyền biển đảo của Tổ quốc. Trong đó, cần đẩy mạnh chuyển đổi theo hướng đánh bắt xa bờ, chuyên môn hóa, phù hợp với từng nghề và từng cộng đồng ngư dân. Đối với vùng ven bờ, bãi ngang, các tỉnh cần có chính sách khuyến khích ngư dân đánh bắt ở vùng lộng và khơi với đội tàu phù hợp với kinh nghiệm của ngư dân.
"Đẩy mạnh tiến trình hiện đại hóa các công nghệ đánh bắt và bảo quản thủy sản cho đội tàu khai thác xa bờ nhằm nâng cao hiệu quả mỗi chuyến đi biển. Lưu ý chính sách phải sát với thực tế, gắn với đặc thù của từng cộng đồng ngư dân, quan tâm cơ chế chính sách về phát triển nhân lực nghề biển, mấu chốt là thuyền trưởng có năng lực, kinh nghiệm vận hành những con tàu hiện đại", TS Hoàng Hồng Hiệp khuyến nghị.
Tại hội thảo, nhiều ý kiến đề nghị nhiệm vụ trọng tâm trước mắt là phải chung tay tháo gỡ thẻ vàng của EC, vì đây không chỉ là bộ mặt của quốc gia mà còn liên quan đến chính sách khai thác hải sản bền vững, là sinh kế lâu dài của cộng đồng ngư dân. Và khẩn trương có chính sách, giải pháp thay thế Nghị định 67 để tháo gỡ khó khăn cho tàu cá vỏ thép nằm bờ, bị bán đấu giá.
Ở góc độ địa phương ven biển, ông Vũ Đại Thắng, Bí thư Tỉnh ủy Quảng Bình cho hay, với mục tiêu sớm trở thành tỉnh phát triển khá trong khu vực Bắc Trung Bộ, Quảng Bình tiếp tục xác định phát triển bền vững kinh tế biển, kiểm soát khai thác tài nguyên biển, gắn với bảo đảm quốc phòng, an ninh, bảo vệ chủ quyền biển đảo. Thu hút đầu tư hạ tầng, hình thành các khu du lịch nghỉ dưỡng, vui chơi giải trí ven biển.
Trong thời gian tới, Quảng Bình tiếp tục có những chủ trương, nhằm thu hút các dự án đầu tư vào các lĩnh vực phát triển kinh tế biển đi kèm với các chính sách ưu đãi, thông thoáng. Thực hiện mô hình tăng trưởng và tái cơ cấu các ngành kinh tế của tỉnh phải theo hướng lấy kinh tế biển làm trọng tâm; nâng cao đời sống vật chất, tinh thần của người dân và bảo đảm an ninh, chủ quyền biển đảo gắn với bảo tồn đa dạng sinh học biển, thích ứng với biến đổi khí hậu.