Bộ trưởng Bộ Thông tin và Truyền thông Nguyễn Mạnh Hùng
Kính thưa các đồng chí,
Chúng ta có mặt tại đây hôm nay cũng là để tìm ra những bài học làm hành trang đi tiếp. Bởi vì, con đường phát triển thì cơ bản là những sự chuyển đổi. Chúng ta đã chuyển đổi mạng viễn thông từ analogue sang số, tiếp theo là số hoá truyền hình và bây giờ là số hoá toàn diện, đưa toàn bộ thế giới thực lên không gian số.
Chúng ta có mặt tại đây hôm nay để nhìn thấy rõ hơn những thành quả của Đề án số hoá truyền hình mà biết bao con người đã không quản ngại khó khăn hơn 9 năm trời để thực hiện thành công.
Chúng ta đã hoàn thành 4 mục tiêu lớn của Đề án, đó là:
Thứ nhất, hoàn thành việc chuyển đổi hạ tầng truyền dẫn, phát sóng truyền hình mặt đất từ công nghệ truyền hình tương tự sang công nghệ truyền hình số thế hệ thứ 2, là công nghệ tiên tiến và hiện đại nhất, trên phạm vi toàn quốc. Hiệu quả sử dụng tần số của truyền hình số mặt đất tăng 30 lần so với truyền hình tương tự. Vì vậy, đã giải phóng được 112MHz thuộc băng tần 700MHz để sẵn sàng phủ sóng dịch vụ 5G toàn quốc, trong khi vẫn có đủ tần số cho nhiều kênh truyền hình hơn trước.
Thứ hai, đã mở rộng đáng kể vùng phủ sóng truyền hình số mặt đất, từ phủ trung tâm của 40 tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương năm 2011 (tương đương 50% dân số) đến nay đã vươn đến tất cả 63 địa phương trên toàn quốc (tương đương với 80% dân số, vượt 10 điểm % so với mục tiêu của Đề án); đảm bảo 100% các hộ gia đình có máy thu hình trên cả nước xem được truyền hình số bằng các phương thức khác nhau gồm truyền hình số mặt đất, truyền hình cáp, truyền hình vệ tinh, truyền hình internet.
Thứ ba, đã thu hút được nguồn lực xã hội để phủ sóng truyền hình mà trước kia dùng ngân sách nhà nước. Đến năm 2020 đã có 4 đơn vị, trong đó có 3 công ty cổ phần tham gia truyền dẫn phát sóng. Nguồn lực xã hội tham gia số hoá truyền hình đã đạt trên 50%.
Thứ tư, năm 2011, 100% các nhà đài vừa làm nội dung, vừa truyền dẫn, phát sóng thì đến nay, 100% các đài PTTH địa phương đã được tổ chức, sắp xếp lại theo hướng chuyên môn hoá, tập trung vào khâu sản xuất nội dung chương trình và thuê dịch vụ truyền dẫn phát sóng.
Trong 10 nước ASEAN, Việt Nam là nước thứ 5 hoàn thành việc tắt sóng truyền hình tương tự, 4 nước đã hoàn thành trước chúng ta là: Brunei năm 2017, Singapore năm 2019, Malaysia năm 2019 và Thái Lan đầu năm 2020, đều là các nước có qui mô dân số nhỏ hơn, và địa hình dễ phủ sóng hơn.
Tắt sóng truyền hình tương tự là một việc khó, nhất là khi bắt đầu Đề án này năm 2011 thì có đến hơn 80% các hộ gia đình vẫn chưa có đầu thu kỹ thuật số. Việt Nam có dân số đứng thứ 13-14 trên thế giới, địa hình lại phức tạp, chia cắt, nhiều đồi núi, làm cho việc số hoá truyền hình còn khó hơn nữa. Nhưng chúng ta đã giữ đúng cam kết với toàn khối ASEAN - hoàn thành việc tắt sóng vào năm 2020. Trên thế giới thì chúng ta là nước thứ 78 trên 193 nước hoàn thành việc tắt sóng truyền hình tương tự. Tức là thuộc nhóm các nước hoàn thành sớm.
Thành công của Đề án là do chúng ta đã có những cách tiếp cận phù hợp với ngữ cảnh Việt Nam.
Một là, hoàn thiện hành lanh pháp lý trước. Ban Chỉ đạo đã phối hợp cùng các bộ, ngành, địa phương, đơn vị, doanh nghiệp hoàn thiện hệ thống văn bản quy phạm pháp luật tạo ra cơ chế hành lang pháp lý đầy đủ, đồng bộ từ trung ương tới địa phương.
Hai là, có lộ trình phù hợp. Làm thí điểm trước tại Đà Nẵng, sau 3 năm chuẩn bị thì Đà Nẵng là địa phương đầu tiên tắt sóng thành công. Tiếp theo là các thành phố lớn, thu nhập cao, sau đó là các tỉnh đồng bằng và cuối cùng là các địa phương miền núi.
Ba là, đi thẳng vào công nghệ hiện đại. Chúng ta đã chọn công nghệ DVB-T2 khi mới chỉ có 6 nước chọn công nghệ này. Nhưng đây là công nghệ tiên tiến, vừa có chất lượng cao hơn, vừa tiết kiệm băng tần hơn. Và thực tế đã chứng minh chúng ta đúng. Đến nay, 90% các nước sử dụng công nghệ DVB thì đã chọn công nghệ DVB-T2.
Bốn là, sáng tạo, linh hoạt vận dụng cơ chế tài chính phù hợp. Trong khi ngân sách nhà nước còn khó khăn, Bộ TT&TT và các Bộ liên quan đã đề xuất Chính phủ cho phép sử dụng Quỹ dịch vụ viễn thông công ích để hỗ trợ các hộ nghèo và cận nghèo thiết bị thu kỹ thuật số. Đã có gần 2 triệu hộ gia đình được hỗ trợ với chi phí trên 1.000 tỷ đồng.
Năm là, quan tâm và lắng nghe ý kiến của người dân, đặt người dân là trung tâm. Đối với người dân, khi tiếp cận sử dụng công nghệ mới, hiện đại sẽ gặp những khó khăn so với việc đã quen sử dụng công nghệ cũ. Vì vậy, Bộ TT&TT đã thiết lập riêng một tổng đài để tiếp nhận phản ánh và hỗ trợ các hộ dân trong quá trình chuyển đổi. Các khó khăn khi sử dụng công nghệ mới đã được trợ giúp và xử lý kịp thời.
Sáu là, truyền thông nâng cao nhận thức. Vì việc tắt sóng truyền hình liên quan đến trên 20 triệu hộ gia đình trên toàn quốc, nên việc truyền thông đóng vai trò đặc biệt quan trọng. Nhân dân phải nhận thức được việc tắt sóng tương tự là để nâng cao chất lượng truyền hình, là để xem được nhiều kênh hơn, trong đó có những kênh chuyên đề về y tế, giáo dục, nông nghiệp giúp nâng cao đời sống.
Bảy là, sự vào cuộc tích cực, chủ động của các địa phương trong việc triển khai đề án. Ủy ban nhân dân các tỉnh, thành phố đã sát sao triển khai các nhiệm vụ của Đề án trên địa bàn: thành lập Ban Chỉ đạo của địa phương; triển khai thông tin, tuyên truyền trên các phương tiện thông tin; tổ chức hội nghị tập huấn, tuyên truyền; lựa chọn đơn vị, doanh nghiệp truyền dẫn, phát sóng truyền hình số mặt đất để truyền tải kênh chương trình truyền hình địa phương; hỗ trợ đầu thu truyền hình số cho các hộ nghèo, cận nghèo; một số địa phương còn hỗ trợ đầu thu truyền hình số cho một số hộ gia đình chính sách.
Kính thưa các đồng chí,
Việt Nam chỉ có thể thay đổi thứ hạng nếu đi cùng nhịp với nhóm dẫn đầu thế giới về cái mới. Và muốn đi nhanh thì phải bỏ đi gánh nặng của quá khứ. Như Steve Jobs từng nói: “Cái chết là sáng tạo tuyệt vời nhất của cuộc sống”. Truyền hình tương tự đã hoàn thành sứ mạng của nó. Việc chuyển từ truyền hình tương tự sang công nghệ truyền hình số thế hệ thứ hai giúp chúng ta đi cùng các nước dẫn đầu thế giới về công nghệ truyền hình.
Trong tương lai, việc chuyển đổi trong nhiều lĩnh vực sẽ xảy ra. Những kinh nghiệm tốt, cách tiếp cận phù hợp của số hoá truyền hình sẽ giúp chúng ta thực hiện thành công các chuyển đổi tiếp theo. Đất nước muốn phát triển nhanh và bền vững thì phải liên tục chuyển đổi, chuyển đổi để đón nhận những cơ hội mới, chuyển đổi để tiến tới những điều tốt đẹp hơn. Và công cuộc chuyển đổi lớn nhất của chúng ta là chuyển đổi thế giới thực vào thế giới số, gọi là chuyển đổi số, mà ngành ta được giao lĩnh ấn tiên phong. Kế thừa và mở ra không gian mới sẽ là cách mà chúng ta làm để thực hiện thành công chuyển đổi số quốc gia.
Thay mặt Ban Chỉ đạo Đề án số hóa truyền hình Việt Nam, tôi xin chân thành cảm ơn tới các Bộ, Đài Truyền hình Việt Nam, Đài Tiếng nói Việt Nam, các đơn vị, doanh nghiệp liên quan; xin chân thành cảm ơn UBND các cấp, Sở TTTT, Đài phát thanh truyền hình các tỉnh/thành phố vì những cống hiến thiết thực, hiệu quả cho sự thành công của Đề án số hóa truyền hình.
Tôi xin chúc tất cả các đồng chí dồi dào sức khoẻ, nhiều niềm vui và thành công mới! Chúc mừng năm mới Nhâm Dần! Chúc Việt Nam chuyển đổi số thành công, hình thành một Việt Nam số thông minh, năng suất cao, linh hoạt và có sức chống chịu cao!
Xin trân trọng cảm ơn!
Nguyễn Mạnh Hùng
Bộ trưởng Bộ Thông tin và Truyền thông