Ảnh minh họa: Internet
Trong những khuôn khổ và những mức độ nhất định, việc kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại đã từng được thực hiện trong lịch sử phát triển của nhân loại cũng như ở Việt Nam. Thực tế cho thấy, sự tồn tại của mọi quốc gia đều gắn liền với môi trường khu vực và quốc tế. Không có quốc gia nào, dù lớn hay bé có thể tự cô lập khỏi thế giới xung quanh. Các quốc gia luôn chịu sự tác động trực tiếp hoặc gián tiếp của thế giới xung quanh và ngược lại. Các tác động đó có thể thuận, tức là có tác dụng bổ trợ cho các mục tiêu của quốc gia đó, giúp quốc gia đó mau chóng và dễ đàng đạt được mục đích hơn. Tác động cũng có thể nghịch, cản trở các quốc gia đạt được mục tiêu của mình. Trước xu thế lớn của thế giới, các quốc gia lớn, nhiều nguồn lực thường có nhiều lựa chọn hơn các quốc gia nhỏ và ít nguồn lực. Đối với các quốc gia nhỏ, nhận biết được các xu thế phát triển quốc tế và tranh thủ được các xu thế đó sẽ là tiếp thêm sức mạnh cho các quốc gia, dân tộc, giúp các nước nhỏ nhân sức mạnh lên nhiều lần(1). Trái lại, nếu đi ngược lại các xu thế đó, các nước có sức mạnh cũng có thể bị điêu tàn, lụi bại. Ngày nay, trong thế giới toàn cầu hóa, các quốc gia trên thế giới ngày càng liên kết với nhau chặt chẽ, sự phụ thuộc giữa các quốc gia ngày càng tăng lên thì việc kết hợp giữa các yếu tố bên ngoài và các nhân tố bên trong mỗi quốc gia ngày càng có ý nghĩa quan trọng quyết định sự thành hay bại trong chính sách của mỗi quốc gia.
Ở đây, sức mạnh dân tộc chính là yếu tố bên trong. Đó là tổng hợp những lợi thế, những nguồn lực nội sinh của dân tộc, quốc gia bao hàm toàn bộ các lĩnh vực kinh tế, chính trị, văn hóa, xã hội; truyền thống và hiện tại. Ngày nay, sức mạnh dân tộc của nước ta là tổng hợp sức mạnh vật chất và tinh thần, sức mạnh cứng và sức mạnh mềm; được tạo nên bởi quy mô và chất lượng của dân số cả nước; các nguồn lực tự nhiên khá phong phú (đất đai, rừng, biển, khoáng sản...); tiềm lực kinh tế và quân sự đã được tăng lên đáng kể sau hơn 35 năm đổi mới (là nền kinh tế lớn thứ 4 trong ASEAN), vị trí địa - chính trị và địa - kinh tế của đất nước; truyền thống yêu nước, tự lực, tự cường; nền văn hóa đậm tính nhân văn, cộng đồng; đóng góp của cách mạng Việt Nam đối với sự nghiệp giải phóng dân tộc, hòa bình và tiến bộ xã hội trên thế giới; sự ổn định chính trị - xã hội; đường lối đúng đắn của Đảng và sự đồng tình, ủng hộ của các tầng lớp nhân dân; sức mạnh tổng hợp quốc gia và vị thế chính trị và ngoại giao của Việt Nam trên trường quốc tế.
Yếu tố bên ngoài, sức mạnh thời đại, là các xu thế chính trị, kinh tế, xã hội trên thế giới như: hòa bình, hợp tác và phát triển, cách mạng khoa học công nghệ, xu thế dân chủ hóa, xu thế phát triển bền vững, tự chủ, xu thế hợp tác và liên kết kinh tế. Bên cạnh đó, sức mạnh của thời đại ngày này còn là sức mạnh của cộng đồng quốc tế ngày càng đồng thuận trong kiến tạo, củng cố một trật tự thế giới dựa trên luật lệ, đa cực, đa trung tâm, dân chủ, công bằng, bình đẳng, sức mạnh của hàng trăm quốc gia phấn đấu hoàn thành các mục tiêu phát triển thiên niên kỷ (MDG); sức mạnh của thế giới văn minh trong kỷ nguyên của cách mạng khoa học công nghệ, kinh tế tri thức, toàn cầu hóa...
Quan điểm về kết hợp sức mạnh dân tộc và sức mạnh thời đại của Đảng và của Chủ tịch Hồ Chí Minh xuất phát từ quan điểm mácxít về giải quyết mâu thuẫn, về mối quan hệ biện chứng, tác động qua lại giữa các yếu tố bên trong và yếu tố bên ngoài. Vận dụng quan điểm mácxít và tư duy biện chứng, Chủ tịch Hồ Chí Minh luôn coi trọng việc kết hợp giữa các yếu tố bên trong và bên ngoài, đặt Việt Nam là một phần của thế giới, xuôi theo dòng chảy lịch sử của thế giới. Quan điểm của Chủ tịch Hồ Chí Minh là đánh giá, quan sát toàn diện “nhìn cho rộng, suy cho kỹ”(2). Trong hai yếu tố bên trong và bên ngoài, Hồ Chí Minh đã từng căn dặn: “Cái gốc, cái điểm mấu chốt về chính trị, quân sự, kinh tế, nội chính, ngoại giao của ta là tự lực cánh sinh”(3). Trong khi sức mạnh dân tộc đóng vai trò quyết định thì sức mạnh thời đại giữ vai trò tạo điều kiện thuận lợi. Như vậy, các yếu tố nội sinh cũng chính là nguồn lực chính, là gốc rễ cho sức mạnh của dân tộc, vì vậy phải luôn được phát huy để đảm bảo tính độc lập, tự chủ để vững mạnh.
Từ khi ra đời, lãnh đạo cuộc cách mạng của dân tộc trong điều kiện hết sức khó khăn, trải qua các cuộc chiến chống thực dân Pháp, chống đế quốc Mỹ xâm lược, Đảng ta luôn hiểu rõ tầm quan trọng của việc phải kết hợp đúng đắn các nguồn lực và các trào lưu cách mạng của thế giới để tiếp thêm sức mạnh cho công cuộc cách mạng của dân tộc, đem lại những thắng lợi to lớn cho dân tộc ta. Trong thời kỳ đổi mới và phát triển kinh tế, quan điểm xuyên suốt này của Đảng và Bác đã được thể hiện và phản ánh qua các nhiệm vụ và phương châm hành động khác nhau.
Quan điểm này được nêu cụ thể tại Đại hội VII năm 1991: “Trong điều kiện mới càng phải coi trọng vận dụng bài học kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại, sức mạnh trong nước với sức mạnh quốc tế, yếu tố truyền thống với yếu tố hiện đại để phục vụ xây dựng và bảo vệ Tổ quốc”(4); và “Mở rộng hợp tác quốc tế, tranh thủ sự đồng tình, ủng hộ và giúp đỡ của nhân dân thế giới, kết hợp sức mạnh của dân tộc với sức mạnh của thời đại”(5) (Đại hội VIII); “Sức mạnh bảo vệ Tổ quốc là sức mạnh tổng hợp của khối đại đoàn kết toàn dân, của cả hệ thống chính trị dưới sự lãnh đạo của Đảng, kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại, sức mạnh của lực lượng và thế trận quốc phòng toàn dân với sức mạnh của lực lượng và thế trận an ninh nhân dân”(6) (Đại hội IX); “phát huy cao độ nội lực, đồng thời ra sức tranh thủ ngoại lực, kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại trong điều kiện mới”(7) (Đại hội X).
Tại Đại hội XI, một lần nữa, bài học kinh nghiệm này lại được Đảng nhấn mạnh: “kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại, sức mạnh trong nước với sức mạnh quốc tế... phát huy cao độ nội lực, đồng thời tranh thủ ngoại lực, kết hợp yếu tố truyền thống với yếu tố hiện đại”(8). Tới Đại hội XII, với đường lối, chủ trương đó, Việt Nam đã hội nhập ngày càng toàn diện vào đời sống quốc tế, tham gia một cách chủ động, tích cực và có trách nhiệm vào giải quyết các vấn đề chung của cộng đồng quốc tế đã giúp tạo một vị thế và hình ảnh mới của dân tộc, đất nước, con người Việt Nam, tạo điều kiện để đất nước có được đà phát triển mới.
Nhờ chú trọng thu hút và kết hợp các nguồn lực bên trong và bên ngoài cho phát triển, kinh tế - xã hội của đất nước liên tục phát triển, vị thế của Việt Nam đã được nâng cao chưa từng có trên trường quốc tế, quan hệ đối ngoại phát triển cả chiều rộng và chiều sâu, đồng thời phát triển toàn diện trên tất cả các lĩnh vực kinh tế, chính trị, quốc phòng và an ninh. Với thế và lực chuyển hóa ở tầm vóc mới, cùng với tiềm lực, uy tín, sức mạnh, niềm tin và khát vọng, Việt Nam đã bước sang trang mới với nền tảng vững chắc để phát triển nhanh và bền vững trong thời gian tới.
Kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại dưới ánh sáng Nghị quyết Đại hội XIII của Đảng
Quan điểm chỉ đạo của Đại hội XIII về kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại
Trong giai đoạn hiện nay, mục tiêu phát triển của đất nước là “khơi dậy khát vọng phát triển đất nước phồn vinh, hạnh phúc, phát huy ý chí và sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc kết hợp với sức mạnh thời đại; đẩy mạnh toàn diện, đồng bộ công cuộc đổi mới, công nghiệp hóa, hiện đại hóa; xây dựng và bảo vệ vững chắc Tổ quốc, giữ vững môi trường hoà bình, ổn định; phấn đấu đến giữa thế kỷ XXI, nước ta trở thành nước phát triển, theo định hướng xã hội chủ nghĩa”(9). Trong mục tiêu trên, có thể thấy nội dung kết hợp sức mạnh đại đoàn kết dân tộc với sức mạnh thời đại vừa là mục tiêu, nhưng cũng là phương hướng hành động.
Nội dung “kết hợp sức mạnh đại đoàn kết dân tộc với sức mạnh thời đại” được thể hiện xuyên suốt trong cả chủ đề của Đại hội, trong quan điểm chỉ đạo và mục tiêu tổng quát trong Nghị quyết Đại hội XIII. Đại hội XIII đã bổ sung nội dung: “khơi dậy khát vọng phát triển đất nước, phát huy ý chí” và “kết hợp với sức mạnh thời đại” vào nội dung “phát huy sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc” để trở thành “khơi dậy khát vọng phát triển đất nước, phát huy ý chí, sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc kết hợp với sức mạnh thời đại...”. Quan điểm chỉ đạo của Nghị quyết Đại hội XIII cũng nêu: “Kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại; nêu cao ý chí độc lập, tự chủ, chủ động, tích cực hội nhập và nâng cao hiệu quả hợp tác quốc tế, phát huy tối đa nội lực, tranh thủ ngoại lực, trong đó nguồn lực nội sinh, nhất là nguồn lực con người là quan trọng nhất”(10).
Việc kết hợp nội lực và ngoại lực, trong đó nội lực là quyết định, kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh của thời đại là một quan điểm lớn, nội dung lớn trong đường lối phát triển đất nước được Đảng đề ra. Việc thể hiện xuyên suốt quan điểm này cả trong chủ đề, mục tiêu và quan điểm chỉ đạo của Nghị quyết Đại hội XIII cho thấy nhận thức sâu sắc của Đảng về các xu thế của thời đại và tầm quan trọng của việc tận dụng các xu thế lớn, các nguồn lực bên ngoài cho phát triển. Đây có thể coi là bước phát triển cao hơn và có ý nghĩa quan trọng cho sự phát triển của đất nước trong giai đoạn tới.
Trong thời gian tới, với quá trình đất nước hội nhập ngày càng sâu vào nền kinh tế thế giới, nhu cầu kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại tiếp tục ngày càng bức thiết. Bối cảnh mới đòi hỏi phải có những quan điểm, cách nhìn nhận mới, đồng thời đặt ra những vấn đề mới cho việc kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại, làm cơ sở xác định những biện pháp nhằm tận dụng cơ hội và vượt qua thách thức.
Nhận thức về sức mạnh dân tộc của Đại hội XIII
Để gắn kết công cuộc đổi mới ở trong nước với xu thế thế giới, để xác định đúng vị trí của mình trong môi trường thế giới và thúc đẩy được hợp tác quốc tế nhằm tranh thủ và kết hợp sức mạnh từ bên ngoài hỗ trợ cho các mục tiêu, nhiệm vụ hiện nay, trước hết cần hiểu và căn cứ vào các đặc điểm chính của đất nước ta trong giai đoạn hiện nay, những điểm làm nên sức mạnh của đất nước mà chúng ta cần tranh thủ và những mặt chúng ta cần tiếp tục khắc phục, phấn đấu.
Sau hơn 35 năm đổi mới, Việt Nam đã có thế và lực mới. Về sức mạnh cứng, GDP Việt Nam tăng gấp 42 lần sau 30 năm (từ 6,3 tỉ USD năm 1989 lên 266,5 tỉ USD năm 2019), GDP bình quân đầu người tăng gấp 28 lần. Kinh tế vĩ mô cơ bản ổn định, lạm phát được kiểm soát. Theo số liệu của Ngân hàng Thế giới, quy mô kinh tế Việt Nam xếp thứ 45 về GDP(11) trên thế giới và xếp thứ 29 về GDP theo sức mua tương đương (năm 2019 đạt 807,82 tỷ USD)(12). Báo cáo của Ngân hàng Thế giới năm 2018 ghi nhận 70% dân số Việt Nam hiện đã “được bảo đảm kinh tế”, trong đó có 13% thuộc tầng lớp trung lưu theo chuẩn thế giới(13). Về cơ cấu, tỷ lệ các ngành kinh tế dịch vụ và công nghệ cao sẽ tăng lên, trong khi ngành nông nghiệp giảm đi. Đến 2015, Việt Nam đã hoàn tất việc thực hiện các Mục tiêu Thiên niên kỷ như xóa đói giảm nghèo cùng cực, đạt phổ cập giáo dục tiểu học, thúc đẩy bình đẳng giới và đạt nhiều tiến bộ trong chỉ tiêu về y tế như giảm tỷ số tử vong mẹ và tỷ suất tử vong trẻ em, đạt mục tiêu về kiểm soát sốt rét và bệnh lao cũng như đẩy lùi tỷ lệ HIV/AIDS(14).
Như vậy, Việt Nam đang được định vị ở nhóm giữa trong thang bảng sức mạnh toàn cầu với hơn 200 quốc gia và vùng lãnh thổ, với nhiều chỉ số được xếp trong nhóm top 30 và được dự báo sẽ còn tăng từ nay đến năm 2030. Trong so sánh, những chỉ số phát triển của Việt Nam hiện không còn quá chênh lệch so với các cường quốc tầm trung và trong tương lai có thể đuổi kịp và vượt một số nước.
Về sức mạnh mềm, Việt Nam được đánh giá là có chế độ chính trị - xã hội ổn định, an ninh và trật tự an toàn xã hội được bảo đảm. Sự hấp dẫn của Việt Nam về mặt kinh tế, thương mại, du lịch với các đối tác cũng một phần nhờ sự ổn định này. Một khía cạnh sức mạnh mềm nữa là giá trị địa - chiến lược của Việt Nam tăng lên so với trước đây do khu vực Ấn Độ Dương - Thái Bình Dương trở thành khu vực “trọng tâm” trong chiến lược đối ngoại của nhiều nước. Những năm qua, Việt Nam trở thành đối tác quan trọng của nhiều nước. Ví dụ, hiện nay Nga xem Việt Nam là cầu nối giữa nước này với ASEAN hay với EVFTA, EU xác định Việt Nam là trung tâm đầu tư tại Đông Nam Á,…
Trong quan hệ đối ngoại, Việt Nam đã mở rộng quan hệ về chiều rộng với 189/193 quốc gia thành viên Liên hợp quốc; đưa vào chiều sâu, thực chất, tạo dựng khuôn khổ quan hệ ổn định, bền vững với các nước, trong đó có 17 đối tác chiến lược, 13 đối tác toàn diện. Việt Nam có quan hệ thương mại với 224 đối tác, đã tham gia 16 hiệp định thương mại tự do (FTA), bao gồm cả các FTA thế hệ mới, giúp tạo xung lực quan trọng cho phát triển kinh tế, thu hút đầu tư nước ngoài, tham gia vào quá trình định hình luật chơi và cấu trúc kinh tế khu vực và thế giới(15). Việt Nam đã trở thành trung tâm của mạng lưới các hiệp định thương mại tự do ở khu vực, cầu nối giữa các nước/khối ngoài khu vực với ASEAN, tạo ra động lực to lớn cho phát triển của đất nước.
Ngoài ra, Việt Nam còn có những lợi thế cụ thể khác về không gian chiến lược, vị trí địa lý, chiều dài bờ biển với nhiều tiềm năng phát triển kinh tế biển, thương mại, du lịch, dịch vụ. Nguồn sức mạnh văn hóa to lớn của Việt Nam cũng chính là nền tảng vững vàng cho phát triển, nâng cao vị thế, củng cố sức mạnh mềm của đất nước. Tính đến nay, Việt Nam đã có 39 danh hiệu được UNESCO ghi danh/công nhận trên tất cả các lĩnh vực gồm văn hóa, khoa học, giáo dục và thông tin…
Nhận định về nội lực của đất nước, Báo cáo chính trị tại Đại hội Đảng lần thứ XIII đánh giá: trong nhiệm kỳ vừa qua, với việc phát huy tinh thần yêu nước, đoàn kết, ý chí quyết tâm, bản lĩnh, sáng tạo, nỗ lực phấn đấu, đất nước đã đạt được nhiều thành tựu rất quan trọng, khá toàn diện, tạo nhiều dấu ấn nổi bật; đất nước phát triển nhanh và bền vững; củng cố, nâng cao niềm tin của nhân dân đối với Đảng, Nhà nước và chế độ xã hội chủ nghĩa. Bên cạnh đó, đất nước đã duy trì được tốc độ tăng trưởng bình quân khá cao (khoảng 6%/năm)(16), cải thiện chất lượng tăng trưởng, giữ vững ổn định kinh tế vĩ mô, đạt những kết quả quan trọng trong ba đột phá chiến lược, và các lĩnh vực đời sống của nhân dân đã được cải thiện rõ rệt. Sức mạnh nội lực của đất nước không chỉ được phát huy nhờ vào nền tảng phát triển kinh tế xã hội vượt bậc trong thời gian vừa qua, mà còn nhờ vào hệ thống chính trị dưới sự lãnh đạo của Đảng liên tục được chú trọng xây dựng và chỉnh đốn.
Tóm lại, trên cơ sở sức mạnh nội tại và những thành tựu đã đạt được, Đại hội Đảng XIII nhận định: “sau 35 năm đổi mới, thế và lực, sức mạnh tổng hợp quốc gia, uy tín quốc tế, niềm tin của nhân dân ngày càng được nâng cao, tạo ra những tiền đề quan trọng để xây dựng và bảo vệ Tổ quốc”(17).
Nhận thức về sức mạnh thời đại của Đại hội XIII
Những chuyển biến sâu sắc trong cục diện quốc tế hiện nay đang tác động trực tiếp tới môi trường an ninh và phát triển của nước ta, đem lại thời cơ và thách thức mới đan xen. Tuy vậy, đất nước đang đứng trước cơ hội lớn hơn để bứt phá. Trên hết, dòng chảy chính của thế giới vẫn là xu thế hòa bình, hợp tác và phát triển. “Cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư, nhất là công nghệ số phát triển mạnh mẽ, tạo đột phá trên nhiều lĩnh vực, tạo ra cả thời cơ và thách thức đối với mọi quốc gia, dân tộc”(18).
Tuy nhiên, khác với thời gian trước, hiện nay Đảng ta nhận định trong nhiệm kỳ Đại hội XIII và những năm tiếp theo, xu thế hòa bình, hợp tác và phát triển đứng trước nhiều trở ngại, khó khăn, thách thức do tình hình thế giới và khu vực tiếp tục có nhiều thay đổi rất nhanh, phức tạp, khó lường. Cụ thể, trên phương diện kinh tế quốc tế, tình trạng kinh tế thế giới suy thoái, cạnh tranh chiến lược giữa các nước lớn, xung đột cục bộ tiếp tục diễn ra dưới nhiều hình thức, phức tạp và quyết liệt hơn, làm gia tăng rủi ro đối với môi trường kinh tế, chính trị, an ninh quốc tế. Toàn cầu hóa và hội nhập quốc tế tiếp tục tiến triển nhưng đang bị thách thức bởi sự cạnh tranh ảnh hưởng giữa các nước lớn và sự trỗi dậy của chủ nghĩa dân tộc cực đoan. Đại hội nhận định các vấn đề như cạnh tranh kinh tế, chiến tranh thương mại, tranh giành thị trường, các nguồn tài nguyên, công nghệ, nhân lực chất lượng cao, thu hút đầu tư nước ngoài giữa các nước ngày càng quyết liệt, tác động mạnh đến chuỗi sản xuất và phân phối toàn cầu. Trong bối cảnh đó, các nước điều chỉnh chiến lược và phương thức phát triển nhằm thích ứng với tình hình mới.
Về quan hệ chính trị, cục diện thế giới tiếp tục biến đổi theo xu hướng đa cực, đa trung tâm; luật pháp quốc tế và các thể chế đa phương toàn cầu đứng trước những thách thức lớn. Các nước lớn vẫn hợp tác, thỏa hiệp, nhưng đấu tranh, kiềm chế lẫn nhau gay gắt hơn. Chủ nghĩa dân tộc cực đoan, chủ nghĩa cường quyền nước lớn, chủ nghĩa thực dụng trong quan hệ quốc gia tăng, theo xu hướng chung là ưu tiên lợi ích quốc gia dân tộc, cho dù thiếu tôn trọng luật lệ quốc tế hay làm phương hại đến nước khác.
Về mặt an ninh, môi trường an ninh, tranh chấp chủ quyền lãnh thổ kể cả trên đất liền và trên biển, trong đó có Biển Đông còn diễn biến phức tạp. Biến đổi khí hậu, thiên tai, dịch bệnh và các vấn đề an ninh phi truyền thống khác, nhất là an ninh mạng, ngày càng tác động mạnh, nhiều mặt, đe dọa nghiêm trọng đến sự phát triển ổn định, bền vững của thế giới, khu vực, kể cả đất nước ta.
Để khắc phục những khó khăn, thách thức trên, Đảng tiếp tục coi trọng tư tưởng Hồ Chí Minh, nỗ lực tìm các biện pháp để đặt Việt Nam vào đúng dòng chảy của thời đại, phát huy cao nhất sức mạnh dân tộc kết hợp với sức mạnh của thời đại để đẩy mạnh toàn diện, đồng bộ công cuộc đổi mới, bảo vệ vững chắc Tổ quốc, giữ vững môi trường hòa bình, ổn định, xây dựng nền tảng để sớm đưa nước ta cơ bản trở thành nước công nghiệp theo hướng hiện đại, tạo sức mạnh to lớn đưa cách mạng Việt Nam tới những thắng lợi mới.
Đồng thời, để tận dụng cơ hội, khắc phục khó khăn, Đại hội XIII đề ra là: “Khơi dậy mạnh mẽ tinh thần yêu nước, ý chí tự cường dân tộc, sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc và khát vọng phát triển đất nước phồn vinh, hạnh phúc; phát huy dân chủ xã hội chủ nghĩa, sức mạnh tổng hợp của cả hệ thống chính trị và của nền văn hóa, con người Việt Nam”(19) và “Kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại; nêu cao ý chí độc lập, tự chủ, chủ động, tích cực hội nhập và nâng cao hiệu quả hợp tác quốc tế, phát huy tối đa nội lực, tranh thủ ngoại lực, trong đó nguồn lực nội sinh, nhất là nguồn lực con người là quan trọng nhất”(20).
Nội dung và giải pháp nhằm thúc đẩy việc kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại để phát triển đất nước
Nội dung chính về kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại theo Nghị quyết Đại hội XIII
Một là, Đại hội XIII định hướng đường lối phát triển của đất nước tiếp tục lấy việc đảm bảo lợi ích quốc gia, dân tộc là mục tiêu cao nhất. Đây là bài học kinh nghiệm đã đúc kết trong lịch sử và nay tiếp tục phát huy. Báo cáo chính trị của Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ XIII đã xác định nhiệm vụ trọng tâm của ngành đối ngoại trong thời gian tới là: “Bảo đảm cao nhất lợi ích quốc gia - dân tộc, trên cơ sở các nguyên tắc cơ bản của Hiến chương Liên hợp quốc và luật pháp quốc tế, bình đẳng và cùng có lợi”(21). Theo đó, lợi ích dân tộc hiện nay là bảo vệ vững chắc hoà bình, độc lập, chủ quyền, toàn vẹn lãnh thổ, nâng cao sức mạnh và vị thế quốc gia, xây dựng thành công và bảo vệ vững chắc Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh.
Hai là, quan điểm về lợi ích dân tộc đã được nêu rõ từ Đại hội Đảng lần thứ XI (2011) và đến nay được Đại hội Đảng lần thứ XIII tiếp tục khẳng định lại, nhưng có lưu ý đến nội dung đảm bảo hài hoà lợi ích quốc gia, dân tộc phù hợp với luật pháp quốc tế, có tính đến lợi ích của các đối tác để đảm bảo bình đẳng và cùng có lợi. Đây không phải là lợi ích quốc gia, dân tộc hẹp hòi, cực đoan, bảo thủ bất chấp ảnh hưởng đến lợi ích, độc lập, chủ quyền và toàn vẹn lãnh thổ của các đối tác liên quan. Tuyên bố tôn trọng các nguyên tắc cơ bản của luật pháp quốc tế của Đại hội trong hợp tác quốc tế về hội nhập và phát triển đã khẳng định việc bảo vệ lợi ích dân tộc Việt Nam trên cơ sở luật pháp quốc tế. Đồng thời, quan điểm về lợi ích dân tộc hài hoà với luật pháp quốc tế góp phần giải quyết đúng đắn mối quan hệ giữa dân tộc và quốc tế, dân tộc và thời đại. Việc tôn trọng luật pháp quốc tế thể hiện ở việc kiên trì sử dụng các biện pháp hoà bình giải quyết tranh chấp phức tạp ở Biển Đông, trong khi vẫn kiên quyết, kiên trì đấu tranh bảo vệ vững chắc độc lập, chủ quyền, toàn vẹn lãnh thổ của Tổ quốc, lợi ích quốc gia - dân tộc. Điều này cũng phù hợp với xu thế chung của thế giới là giữ gìn hoà bình, giải quyết tranh chấp bằng biện pháp hoà bình, tôn trọng luật pháp của thế giới.
Ba là, trên cơ sở tiếp tục phát huy mẫu số chung giữa sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại, hài hòa hóa lợi ích dân tộc và lợi ích của nhân dân thế giới, Đại hội XIII tiếp tục định hướng đường lối đối ngoại đề cao hoà bình, độc lập dân tộc, tự do, hạnh phúc của Nhân dân: “chủ động và tích cực hội nhập quốc tế toàn diện, sâu rộng; Việt Nam là bạn, là đối tác tin cậy và là thành viên tích cực, có trách nhiệm trong cộng đồng quốc tế”(22). Việt Nam luôn thể hiện tinh thần hoà hiếu, sẵn sàng đóng góp vào cộng đồng thế giới vì mục tiêu chung giữ vững môi trường, hoà bình, ổn định để phát triển, không vì lo ngại mất bản sắc dân tộc mà bỏ qua sức mạnh thời đại. Quan điểm này đã phản ánh mong muốn và giá trị chung của cộng đồng thế giới, đồng thời là cơ sở cho Việt Nam tiếp tục hội nhập quốc tế.
Bốn là, đúc rút từ các bài học kinh nghiệm trong lịch sử, Đảng ta đã sớm định hướng phải tự lực, tự cường và nay tiếp tục nhấn mạnh hơn nữa trong thời kỳ mới. Sức mạnh dân tộc là yếu tố quyết định, sức mạnh thời đại là yếu tố thuận lợi bên ngoài, đóng vai trò quan trọng, tạo điều kiện phát huy hiệu quả sức mạnh dân tộc. Trong bối cảnh mới hiện nay, với sự biến động kinh tế chính trị khôn lường, định hướng tự lực tự cường này được nhấn mạnh hơn nữa. Đại hội Đảng lần thứ XIII đã đưa ra các biện pháp nhằm tăng cường nội lực, như: tăng cường sự lãnh đạo của Đảng, đổi mới mô hình tăng trưởng, cơ cấu lại nền kinh tế, đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa, phát triển đất nước nhanh, bền vững. Đại hội XIII của Đảng đã đặt ra những nhiệm vụ cụ thể trong việc xây dựng nền kinh tế độc lập, tự chủ; nâng cao hiệu quả hội nhập kinh tế quốc tế như: phải độc lập, tự chủ trong xây dựng chủ trương, đường lối, chiến lược phát triển kinh tế đất nước, phát triển doanh nghiệp, đa phương hóa, đa dạng hóa quan hệ kinh tế, nâng cao khả năng chống chịu của nền kinh tế, hoàn thiện hệ thống phòng vệ. Đồng thời, Đại hội đặt ra yêu cầu hội nhập kinh tế với lộ trình phù hợp, hoàn thiện luật pháp quốc tế.
Năm là, Nghị quyết Đại hội XIII đã bổ sung yếu tố dân chủ, gắn vận mệnh dân tộc, đất nước vào thời đại, kết hợp sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc với sức mạnh thời đại. Nội dung về xây dựng chủ nghĩa xã hội có bổ sung những nhân tố mới là khơi dậy khát vọng phát triển dân tộc, phát huy ý chí để phát triển đất nước, xây dựng đất nước phồn vinh, hạnh phúc. Đồng thời, Nghị quyết vẫn nhấn mạnh đoàn kết là sức mạnh; dân chủ trong Đảng phải là nòng cốt, dân chủ phải là kỷ cương, kỷ luật của Đảng. Đoàn kết, dân chủ, kỷ cương và sáng tạo là những tiền đề, nhân tố quan trọng cho sự phát triển của đất nước.
Giải pháp tăng cường kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại trong thời gian tới
Quán triệt Nghị quyết Đại hội XIII về tăng cường “kết hợp sức mạnh dân tộc và sức mạnh thời đại” để phát triển đất nước trong thời gian tới, từ góc độ công tác đối ngoại, xin đề xuất một số kiến nghị về giải pháp cụ thể như sau:
Thứ nhất, cần quán triệt chủ trương: “Tiếp tục thực hiện đường lối đối ngoại độc lập, tự chủ, đa phương hóa, đa dạng hóa; chủ động và tích cực hội nhập quốc tế toàn diện, sâu rộng, có hiệu quả; giữ vững môi trường hoà bình, ổn định, không ngừng nâng cao vị thế, uy tín quốc tế của Việt Nam”(23). Bên cạnh đó, cần tiếp tục thúc đẩy và nâng cao hiệu quả hội nhập quốc tế, tiếp tục đẩy mạnh và nâng tầm đối ngoại đa phương trên cơ sở nhiệm vụ đã được nêu trong Nghị quyết Đại hội: “Đẩy mạnh đối ngoại song phương và nâng tầm đối ngoại đa phương. Chủ động tham gia và phát huy vai trò của Việt Nam tại các cơ chế đa phương, đặc biệt là ASEAN, Liên hợp quốc, APEC, hợp tác tiểu vùng Mê Kông và các khuôn khổ hợp tác khu vực và quốc tế, trong những vấn đề và các cơ chế quan trọng có tầm chiến lược, phù hợp với yêu cầu, khả năng và điều kiện cụ thể”(24).
Thứ hai, ngành Ngoại giao cần tiếp tục phát huy vai trò là “một mặt trận” tiên phong tạo dựng môi trường hoà bình, thuận lợi cho phát triển, nâng cao vị thế đất nước. Ngành Ngoại giao cần chủ động, tích cực thúc đẩy tinh thần đổi mới, sáng tạo, năng động thích ứng với những chuyển biến nhanh của tình hình quốc tế, củng cố vững chắc môi trường quốc tế thuận lợi và thu hút các nguồn lực phục vụ phát triển và nâng cao vị thế đất nước, bảo vệ Tổ quốc từ sớm, từ xa, từ lúc nước chưa nguy. Điều này đúng với yêu cầu Đảng ta đặt ra là: “Tình hình thế giới và trong nước có cả thuận lợi, thời cơ và khó khăn, thách thức đan xen, đặt ra nhiều vấn đề mới, yêu cầu mới nặng nề, phức tạp hơn đối với sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, đòi hỏi toàn Đảng phải tiếp tục đổi mới mạnh mẽ tư duy, có quyết tâm chính trị cao, dự báo chính xác, kịp thời diễn biến của tình hình, chủ động ứng phó kịp thời với mọi tình huống, nỗ lực hơn nữa để tiếp tục đẩy mạnh toàn diện, đồng bộ công cuộc đổi mới, không ngừng gia tăng tiềm lực mọi mặt của quốc gia, bảo vệ vững chắc Tổ quốc và những thành quả phát triển đã đạt được”(25).
Thứ ba, trên cơ sở kế thừa truyền thống ngoại giao Việt Nam và tư tưởng ngoại giao Hồ Chí Minh, ngoại giao Việt Nam cần được xây dựng hướng tới hiện đại cả về lực lượng, nội dung và phương thức hoạt động. Trong đó, một trong những nguồn lực quan trọng bên ngoài được nhấn mạnh trong các Văn kiện của Đảng là “thành tựu của cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư, thúc đẩy đổi mới sáng tạo, tạo động lực mới cho phát triển nhanh và bền vững đất nước”(26). Cùng với xu thế của thế giới đang chuyển động mạnh hướng tới tận dụng thành quả của công nghiệp 4.0, chuyển đổi số, ngoại giao Việt Nam cũng cần chuyển dịch theo hướng hiện đại, thể hiện ở nội dung, phương pháp triển khai, cách thức quản trị của ngoại giao trong tình hình mới, trong đó nhấn mạnh sự thích ứng với các yếu tố như ứng dụng công nghệ thông tin, ngoại giao số, ngoại giao trực tuyến, ngoại giao thượng đỉnh… Bên cạnh ứng dụng công nghệ thông tin, Bộ Ngoại giao còn đổi mới về nguồn nhân lực, bộ máy tổ chức, quy trình, và cơ sở vật chất hiện đại.
Thứ tư, Đại hội XIII đặt ra yêu cầu: “Nâng cao bản lĩnh, phẩm chất, năng lực, phong cách chuyên nghiệp, đổi mới sáng tạo của đội ngũ cán bộ làm công tác đối ngoại và hội nhập quốc tế; chủ động thích ứng trước chuyển biến của tình hình”(27). Từ đó, Đảng ta đề ra biện pháp đối với con người: “có cơ chế đột phá để thu hút, trọng dụng nhân tài”(28). Cụ thể với nhiệm vụ hội nhập quốc tế, Đại hội đề ra yêu cầu: “Tăng cường đào tạo, bồi dưỡng cán bộ am hiểu sâu về luật pháp quốc tế, thương mại, đầu tư quốc tế, có khả năng làm việc trong môi trường quốc tế, trước hết là cán bộ trực tiếp làm công tác hội nhập kinh tế quốc tế, giải quyết tranh chấp quốc tế”(29).
* * *
Kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại, phát huy nguồn nội lực, kết hợp với điều kiện thuận lợi của ngoại lực là bài học đúc kết từ quá trình phát triển lịch sử từ khi thành lập nước. Bài học chiến lược này có vai trò quyết định thành bại của quá trình xây dựng và phát triển đất nước, hội nhập quốc tế thành công. Nhờ chú trọng thu hút và kết hợp các nguồn lực bên trong và bên ngoài cho phát triển, kinh tế - xã hội của đất nước liên tục phát triển, vị thế của Việt Nam đã được nâng cao chưa từng có trên trường quốc tế, quan hệ đối ngoại phát triển cả chiều rộng và chiều sâu, toàn diện trên các lĩnh vực kinh tế, chính trị, quốc phòng và an ninh. Trong bối cảnh và tình hình mới ngày càng phức tạp, việc kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại phải luôn linh hoạt, thích ứng với các xu thế vận động của thế giới, nhưng trên hết phải phát huy nguồn lực tổng hợp với nguồn lực nội tại, giữ vững mục tiêu, nhiệm vụ và lợi ích quốc gia để đảm bảo giữ vững độc lập, chủ quyền, toàn vẹn lãnh thổ, vững bước trên con đường xây dựng chủ nghĩa xã hội, đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa và hội nhập quốc tế./.
----------------------------
Ghi chú:
1. Trên thế giới đã có nhiều nước nhỏ nhờ nhận biết sớm và tranh thủ tốt các xu thế phát triển của thời đại nên đã đạt được nhiều thành tựu vượt bậc, mặc dù thực lực không nhiều. Xingapo là một quốc gia điển hình. Từ một quốc đảo thuộc thế giới thứ ba không có cả tài nguyên thiên nhiên lẫn tài nguyên con người, Xingapo đã phát huy được đoàn kết quốc gia giữa các nhóm dân tộc người Hoa, người Malaixia và người Ấn, tranh thủ được xu thế giải phóng thuộc địa và trào lưu tôn trọng quyền tự quyết các dân tộc trên thế giới để gây dựng đất nước, đồng thời tận dụng tối đa vị trí địa lý gần các tuyến giao thông hàng hải quan trọng nhất để trở thành thương cảng quan trọng của khu vực và một quốc gia phát triển chỉ ba thập kỷ sau khi tuyên bố độc lập.
2. Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t.3, tr.326.
3. Bộ Ngoại giao: Bác Hồ và hoạt động ngoại giao - Một vài kỷ niệm về Bác, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2008, tr. 119.
4. Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đảng toàn tập, Sđd, t.51, tr.114.
5. Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đảng toàn tập, Sđd, t.55, tr.313.
6. Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đảng toàn tập, Sđd, t.60, tr.114.
7. Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đảng toàn tập, Sđd, t.65, tr.140.
8. Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI, Sđd, tr.66.
9. Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, Sđd, t.II, tr.326.
10. Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, Sđd, t.I, tr.110-111.
11. Xem World Bank: “Gross Domestic Product 2019,” 2019, https://datacatalog. worldbank. org/dataset/gdp-ranking.
12. Xem World Bank: “GDP, PPP (Current International $) | Data”, 2019, https://data.worldbank.org/indicator/ny.gdp.mktp.pp.cd?most_recent_value_ desc=true.
13. Xem The World Bank: “Nghèo ở Việt Nam tiếp tục giảm, theo Báo cáo Của NHTG”, April 2018, https://www.worldbank.org/vi/news/press-release/2018/04/05/vietnam-continues-to-reduce-poverty-according-to-world-bank-report.
14. Xem Kim Thanh: “Việt Nam đã hoàn tất mục tiêu phát triển thiên niên kỷ”, Báo điện tử Đài Tiếng nói Việt Nam, 9/2015, https://vov.vn/xa-hoi/viet-nam-da-hoan-tat-muc-tieu-phat-trien-thien-nien-ky-433466.vov.
15. Xem https://www.tapchicongsan.org.vn/web/guest/quoc-phong-an-ninh-vi-ngoai1/-/2018/ 821527/doi-ngoai-viet-nam-2020--tu-tin-vung-buoc-tren-con-duong-phat-trien.aspx.
16. Xem Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, Sđd, t.I, tr.20.
17. Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, Sđd, t.I, tr.107, 106.
18. Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, Sđd, t.I, tr.107, 106.
19. Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, Sđd, t.I, tr.110.
20. Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, Sđd, t.I, tr.110-111, 110.
21. Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, Sđd, t.I, tr.110-111, 110.
22. Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, Sđd, t.I, tr.162.
23. Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, Sđd, t.I, tr.117-118.
24. Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, Sđd, t.I, tr.162-163, 109, 110.
25. Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, Sđd, t.I, tr.162-163, 109, 110.
26. Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, Sđd, t.I, tr.162-163, 109, 110.
27. Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, Sđd, t.I, tr. 165, 110, 135-136.
28. Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, Sđd, t.I, tr. 165, 110, 135-136.
29. Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, Sđd, t.I, tr. 165, 110, 135-136.
TS Phạm Lan Dung, Giám đốc Học viện Ngoại giao