Ủy viên Bộ Chính trị, Thủ tướng Chính phủ Phạm Minh Chính làm việc với các nhà khoa học, đơn vị nghiên cứu và các doanh nghiệp
trong nước về sản xuất vaccine phòng COVID-19_Ảnh: TTXVN
Quan điểm, chủ trương về chế độ tổ chức thực hiện nghị quyết của Đảng
Đảng lãnh đạo bằng nghị quyết, nhưng nghị quyết có đi vào cuộc sống được hay không lại do việc tổ chức thực hiện nghị quyết có tốt hay không. Bởi vậy, tổ chức thực hiện nghị quyết là nhiệm vụ quan trọng, thường xuyên của các cấp ủy, tổ chức đảng, là mối quan tâm lớn của Đảng. Một trong những vấn đề được Đảng ta quan tâm trong đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng hiện nay là đổi mới việc tổ chức thực hiện nghị quyết của Đảng, tập trung lãnh đạo, chỉ đạo kiên quyết, giám sát chặt chẽ việc cụ thể hóa, thể chế hóa, tổ chức thực hiện nghị quyết; coi trọng kiểm tra, giám sát, đôn đốc, sơ kết, tổng kết việc thực hiện nghị quyết, chỉ thị của Đảng, bảo đảm hiệu lực, hiệu quả. Để thực hiện tốt nhiệm vụ quan trọng này cần hoàn thiện chế độ tổ chức thực hiện nghị quyết của Đảng.
Tổ chức thực hiện nghị quyết của Đảng là việc lớn, hệ trọng nên cần phải xây dựng thành chế độ, trong đó những việc, những bước triển khai thực hiện nghị quyết từ tư tưởng đến tổ chức cần phải được quy định thống nhất thì mới có thể tránh được sự tùy tiện. Chế độ tổ chức thực hiện nghị quyết là toàn bộ những quy định cần tuân theo trong tổ chức thực hiện nghị quyết, nhằm thống nhất cách tổ chức thực hiện, bảo đảm kỷ cương, kỷ luật và đạt kết quả tốt nhất trong việc tổ chức thực hiện nghị quyết của Đảng.
Việc tổ chức thực hiện nghị quyết của Đảng phụ thuộc vào loại nghị quyết và cấp ban hành nghị quyết đó, nên không thể có một cách tổ chức thực hiện nghị quyết giống nhau. Các quy định về chế độ tổ chức thực hiện nghị quyết của Đảng chỉ có thể mang tính định hướng khung là chính, còn áp dụng vào các tổ chức đảng như thế nào là do các cấp ủy căn cứ vào tình hình cụ thể mà có cách thực hiện phù hợp với nội dung, yêu cầu của nghị quyết, với đặc điểm địa phương, đơn vị.
Từ thực tiễn và quan điểm, chủ trương của Đảng, có thể nhận thấy chế độ tổ chức thực hiện nghị quyết của Đảng hiện nay thường gồm các việc chủ yếu sau:
- Lãnh đạo tổ chức học tập, quán triệt và triển khai thực hiện nghị quyết.
- Phổ biến, học tập, tuyên truyền nghị quyết.
- Xây dựng chương trình, kế hoạch thực hiện nghị quyết.
- Cụ thể hóa, thể chế hóa nghị quyết.
- Thực hiện nghị quyết theo kế hoạch, chương trình.
- Kiểm tra, giám sát việc thực hiện nghị quyết.
- Sơ kết, tổng kết việc thực hiện nghị quyết.
Từ trước đến nay, việc phổ biến, học tập, tuyên truyền nghị quyết đã trở thành nhiệm vụ thường xuyên của toàn Đảng và vừa qua, các cấp ủy đã có những tìm tòi, đổi mới việc phổ biến, học tập, tuyên truyền nghị quyết. Gần đây, việc xây dựng kế hoạch, chương trình thực hiện nghị quyết; cụ thể hóa nghị quyết; kiểm tra, giám sát, sơ kết, tổng kết việc thực hiện nghị quyết được quan tâm. Những tiến bộ đó đã góp phần tạo ra sự đổi mới trong tổ chức thực hiện nghị quyết của Đảng. Tuy nhiên, so với yêu cầu, việc tổ chức thực hiện nghị quyết của Đảng vẫn còn nhiều hạn chế, bất cập, như lãnh đạo, chỉ đạo tổ chức thực hiện nghị quyết vẫn còn tình trạng “đầu voi, đuôi chuột”, lúc đầu rất “nóng” nhưng một thời gian sau thì “nguội” dần, thậm chí “lạnh” hẳn, không còn nói đến nghị quyết nữa; việc phổ biến, học tập, tuyên truyền nghị quyết còn tình trạng hời hợt, đối phó, chiếu lệ, cả về phía người học và người tổ chức; việc xây dựng kế hoạch, chương trình thực hiện nghị quyết còn hình thức; việc cụ thể hóa nghị quyết không được chỉ đạo chặt chẽ; việc sơ kết, tổng kết rút kinh nghiệm tổ chức thực hiện nghị quyết không được quan tâm đúng mức... Đại hội XIII của Đảng chỉ rõ: “Việc thể chế hóa, cụ thể hóa một số chủ trương, nghị quyết của Đảng thành pháp luật của Nhà nước chưa đầy đủ, kịp thời. Việc ban hành nghị quyết của một số cấp ủy, tổ chức đảng chưa sát thực tiễn, thiếu tính khả thi; việc lãnh đạo, chỉ đạo, tổ chức thực hiện một số nghị quyết chưa nghiêm, hiệu quả thấp, chưa đạt yêu cầu đề ra”(1). Những hạn chế, khuyết điểm trong tổ chức thực hiện nghị quyết đã làm hạn chế vai trò, hiệu quả các nghị quyết của Đảng, làm cho một số nghị quyết không đi vào cuộc sống theo mong đợi của nhân dân, ảnh hưởng tiêu cực đến vai trò, uy tín, hiệu lực lãnh đạo của Đảng; do vậy, cần phải kiên quyết khắc phục để góp phần đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng.
Một số kiến nghị để hoàn thiện chế độ tổ chức thực hiện nghị quyết của Đảng
Thứ nhất, tập trung lãnh đạo, chỉ đạo tổ chức học tập, quán triệt và triển khai thực hiện nghị quyết
Khoa học tổ chức đã xác định quy luật của tổ chức: Năng lượng thúc đẩy sự vận động của tổ chức là quyết định của cơ quan quản lý, lãnh đạo. Do đó, để việc tổ chức thực hiện nghị quyết có kết quả, trước hết phụ thuộc vào sự lãnh đạo, chỉ đạo tập trung, quyết liệt, khoa học của cấp ủy, tổ chức đảng chịu trách nhiệm. Sau khi ban hành nghị quyết, người đứng đầu cấp ủy, tổ chức đảng phải tập trung vào chủ trì việc lãnh đạo, chỉ đạo tổ chức học tập, quán triệt và triển khai thực hiện nghị quyết, làm tốt các việc xây dựng, ban hành các văn bản lãnh đạo, chỉ đạo, hướng dẫn tổ chức học tập, quán triệt và triển khai thực hiện nghị quyết. Các cơ quan tham mưu của cấp ủy và cấp ủy, tổ chức đảng cấp dưới phải chịu trách nhiệm quán triệt, triển khai tích cực các văn bản của cấp trên theo chức năng, nhiệm vụ. Về vấn đề này, Chủ tịch Hồ Chí Minh căn dặn: “Tất cả các nghị quyết của Đảng phải do cơ quan lãnh đạo chuẩn bị kỹ càng, rồi giao cho các cấp thảo luận. Không được làm qua loa, sơ sài”(2). Để thực hiện tốt Nghị quyết Đại hội XIII của Đảng, ngày 9-3-2021, Bộ Chính trị đã ban hành Chỉ thị số 01-CT/TW, “Về việc nghiên cứu, học tập, quán triệt, tuyên truyền và triển khai thực hiện Nghị quyết Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII của Đảng”. Căn cứ vào Chỉ thị số 01-CT/TW của Bộ Chính trị, hướng dẫn của Ban Tuyên giáo Trung ương, cấp ủy các cấp từ cấp tỉnh đến cấp cơ sở phải chủ động, tích cực xây dựng kế hoạch tổ chức học tập, quán triệt và triển khai thực hiện nghị quyết nghiêm túc. Trung ương cần nghiên cứu ban hành quy định về chế độ tổ chức thực hiện nghị quyết của Đảng để bảo đảm tính khoa học, thống nhất trong toàn Đảng.
Để nâng cao chất lượng, hiệu quả lãnh đạo, chỉ đạo việc tổ chức phổ biến, học tập, quán triệt, tuyên truyền nghị quyết, cần chú ý hai vấn đề: Một là, chỉ ban hành nghị quyết khi thật cần thiết, kiên quyết khắc phục tình trạng ban hành quá nhiều nghị quyết; đồng thời, nghị quyết phải thiết thực, ngắn gọn, khả thi; phải tính đến cân đối các nguồn lực và điều kiện bảo đảm triển khai thực hiện có hiệu quả; phân công rõ trách nhiệm tổ chức, cá nhân, thời hạn hoàn thành các nhiệm vụ, giải pháp được ghi trong nghị quyết. Hai là, khái quát hóa các nội dung chính, những vấn đề mới và các nhiệm vụ, giải pháp lớn để dễ nhớ, dễ tuyên truyền, dễ thực hiện. Ví dụ, với những nội dung lớn mà Đại hội XIII của Đảng đã thảo luận, quyết nghị thể hiện trong Nghị quyết Đại hội có thể khái quát thành một số điểm nhấn như: 3 thành tựu nổi bật (kinh tế - xây dựng Đảng - quốc phòng, an ninh, đối ngoại) - 3 tầm nhìn (2025 - 2030 - 2045) - 6 trọng tâm - 3 đột phá...
Thứ hai, tiếp tục đổi mới, nâng cao chất lượng phổ biến, học tập, quán triệt, tuyên truyền nghị quyết của Đảng
Với việc phổ biến, học tập, quán triệt, tuyên truyền Nghị quyết Đại hội XIII của Đảng, toàn Đảng cần quán triệt và thực hiện nghiêm quan điểm chỉ đạo của Chỉ thị số 01-CT/TW của Bộ Chính trị: “Việc nghiên cứu, học tập, quán triệt, tuyên truyền và triển khai thực hiện Nghị quyết Đại hội XIII của Đảng là công việc thường xuyên, phải được thực hiện một cách nghiêm túc, bài bản, khoa học trong suốt cả nhiệm kỳ. Đây là một trong những nhiệm vụ trọng tâm của năm 2021, là đợt sinh hoạt chính trị sâu rộng để mỗi cán bộ, đảng viên đều nắm vững và thực hiện đúng đắn, sáng tạo Nghị quyết của Đảng”.
Để nâng cao chất lượng, hiệu quả học tập, triển khai thực hiện nghị quyết của Đảng, với đối tượng học tập khác nhau cần xác định nội dung chính và phương pháp truyền đạt phù hợp. Cần tùy loại nghị quyết để xác định đối tượng, cách tổ chức phổ biến, học tập, tuyên truyền nghị quyết cho phù hợp, hiệu quả; khắc phục tình trạng phổ biến, học tập, quán triệt nghị quyết nhất loạt như nhau về đối tượng, hình thức. Với Nghị quyết Đại hội đại biểu toàn quốc, thực hiện việc phổ biến, học tập, quán triệt trong toàn Đảng; nghị quyết đại hội đại biểu đảng bộ tỉnh, huyện, cơ sở, thực hiện việc phổ biến, học tập trong toàn đảng bộ các cấp đó; nghị quyết chuyên đề nhưng toàn Đảng phải thực hiện, cần phổ biến, học tập trong toàn Đảng; nghị quyết lãnh đạo các lĩnh vực (nghị quyết chuyên đề hẹp) tiến hành phổ biến, tuyên truyền trong toàn Đảng nhưng cần tập trung học tập, quán triệt sâu ở các tổ chức đảng, đảng viên của ngành, lĩnh vực đó để các tổ chức đảng, đảng viên nắm vững nghị quyết.
Việc tổ chức nghiên cứu, học tập, quán triệt nghị quyết của Đảng phải được tiến hành khẩn trương, nghiêm túc, chất lượng; kết hợp tự nghiên cứu với nghe phổ biến, quán triệt; nhấn mạnh, làm rõ những vấn đề mới, cốt lõi. Cần đổi mới hình thức tổ chức học tập, quán triệt nghị quyết cho phù hợp với điều kiện, hoàn cảnh của đối tượng và tình hình mới. Đối tượng khác nhau cần có hình thức, phương pháp truyền đạt khác nhau.
Với hình thức tổ chức hội nghị trực tuyến phổ biến, học tập, quán triệt, tuyên truyền nghị quyết, cần tiếp tục mở rộng tới tổ chức đảng các cấp; tuy nhiên, để bảo đảm chất lượng cần chú ý: Một là, có đường truyền tốt, màn hình có kích thước phù hợp; hai là, có báo cáo viên tốt; ba là, tổ chức hội nghị nghiêm túc, kiểm tra, giám sát chặt chẽ việc tiếp thu, học tập.
Với điều kiện kỹ thuật và phương tiện truyền thông, truyền hình phát triển mạnh mẽ, phổ biến, tiện lợi như hiện nay, cần áp dụng hình thức tổ chức cho cán bộ, đảng viên trực tiếp theo dõi quá trình ban hành nghị quyết quan trọng, như Nghị quyết Đại hội đại biểu toàn quốc của Đảng. Nếu làm được, sẽ bớt đi hình thức phổ biến nhanh nghị quyết; đồng thời, giúp toàn thể đảng viên của Đảng nắm được ngay những nội dung mới, quan trọng của nghị quyết.
Cùng với tổ chức học tập, quán triệt nghị quyết, cần tập trung làm tốt công tác tuyên truyền nghị quyết. Công tác tuyên truyền nghị quyết của Đảng cần được tiến hành thường xuyên, toàn diện, đồng bộ, thống nhất, kịp thời, phong phú, sinh động. Nội dung tuyên truyền tập trung vào những nội dung chính, những vấn đề mới của nghị quyết. Khi triển khai phổ biến, thực hiện Nghị quyết Đại hội XIII của Đảng, nội dung tuyên truyền cần thực hiện theo tinh thần Chỉ thị số 01-CT/TW của Bộ Chính trị là tập trung tuyên truyền về thành công của Đại hội, về những nội dung cốt lõi của Nghị quyết Đại hội XIII của Đảng; nhận diện đầy đủ những cơ hội, thuận lợi và khó khăn, thách thức trong những năm tới; chú trọng đấu tranh phản bác các quan điểm lệch lạc, sai trái, thù địch và định hướng dư luận xã hội theo đúng phương châm “lấy xây làm chính”, “lấy tích cực đẩy lùi tiêu cực”; phản ánh kịp thời, đầy đủ, toàn diện việc triển khai thực hiện Nghị quyết tới các tầng lớp nhân dân trong nước và đồng bào ta ở nước ngoài để góp phần củng cố niềm tin, tạo sự đồng thuận trong thực hiện mục tiêu phát triển đất nước phồn vinh, hạnh phúc.
Cần vận dụng nhiều hình thức, phương pháp, phương tiện tuyên truyền, áp dụng các tiến bộ công nghệ vào công tác tuyên truyền để những nội dung lớn của nghị quyết đến được với mọi cán bộ, đảng viên, hội viên và các tầng lớp nhân dân. Một mặt, đổi mới, nâng cao chất lượng tuyên truyền bằng các phương tiện thông tin đại chúng, như báo chí, truyền hình, phát thanh, xuất bản, triển lãm, văn hóa, văn nghệ, cổ động...; mặt khác, cần đẩy mạnh tuyên truyền trên mạng xã hội, vì qua kênh này sẽ tiếp cận được lực lượng thanh niên nhanh nhất và rất hiệu quả, đồng thời không gian truyền bá nghị quyết không có giới hạn.
Thứ ba, đổi mới và thực hiện tốt việc xây dựng kế hoạch, chương trình thực hiện nghị quyết
Xây dựng kế hoạch, chương trình thực hiện nghị quyết sẽ giúp cho việc triển khai thực hiện nghị quyết một cách bài bản, chắc chắn, có lộ trình chủ động, khắc phục được cách thực hiện nghị quyết tùy tiện, bỏ sót, bỏ quên các nội dung của nghị quyết.
Việc xây dựng kế hoạch, chương trình thực hiện nghị quyết thường chỉ giao cho ban tuyên giáo cấp ủy các cấp hoặc cán bộ phụ trách công tác đảng, mà chưa chú trọng sự phối hợp, phân công theo đặc thù nội dung của từng nghị quyết; do đó, nội dung kế hoạch, chương trình thực hiện nghị quyết nhiều khi chưa phản ánh đúng nội dung, yêu cầu, mục đích triển khai thực hiện ở cấp ủy, cơ quan, đơn vị; chưa phù hợp với chức năng, nhiệm vụ, thẩm quyền của cấp ủy, cơ quan, đơn vị. Mục tiêu trong chương trình, kế hoạch chưa được định lượng, không có chỉ số tham chiếu để đánh giá mức độ tích cực dẫn đến thiếu tính khả thi; kế hoạch không rõ người, rõ việc, rõ mục tiêu, rõ giải pháp và thời gian thực hiện. Tình trạng sao chép chương trình hành động giữa các cấp ủy với nhau và với cấp ủy cấp trên vẫn xảy ra; do vậy, chương trình hành động của không ít cấp ủy, tổ chức đảng chỉ mang tính thủ tục để báo cáo với cấp ủy cấp trên và khi có đoàn kiểm tra.
Để đổi mới việc tổ chức thực hiện nghị quyết, phải chú trọng đổi mới việc xây dựng và thực hiện kế hoạch, chương trình thực hiện nghị quyết của cấp ủy, tổ chức đảng. Cấp ủy các cấp chủ trì xây dựng chương trình hành động hoặc kế hoạch thực hiện của địa phương, đơn vị trên cơ sở vận dụng các mục tiêu, quan điểm, nhiệm vụ, giải pháp của nghị quyết; đồng thời, phải bám sát thực tiễn cơ sở nhằm nhanh chóng đưa nghị quyết vào cuộc sống.
Với những nghị quyết lớn, quan trọng và liên quan trực tiếp, người đứng đầu cấp ủy, chính quyền, cơ quan, đơn vị phải xây dựng kế hoạch cá nhân thực hiện nghị quyết, gắn với chức trách, nhiệm vụ được giao, thể hiện quyết tâm, tinh thần đổi mới, chủ động, sáng tạo, dám nghĩ, dám làm, dám đột phá, dám chịu trách nhiệm vì lợi ích chung.
Việc xây dựng chương trình hành động hoặc kế hoạch thực hiện phải được quan tâm từ khâu xây dựng, thảo luận, quán triệt đến tổ chức thực hiện, kiểm tra đôn đốc; và phải hoàn thành ngay sau khi học tập, quán triệt nghị quyết. Cần nghiên cứu kỹ lưỡng, nắm vững các nội dung chính, nội dung mới, nội dung trọng tâm của nghị quyết của Đảng; trên cơ sở đó, quán triệt, vận dụng sáng tạo, linh hoạt vào xây dựng kế hoạch, chương trình hành động sát với thực tiễn, có tính khả thi, với các chỉ tiêu, nhiệm vụ, giải pháp, nguồn lực cụ thể; đồng thời, phân công rõ trách nhiệm và thời gian thực hiện, tránh tình trạng xây dựng chương trình, kế hoạch qua loa, sao chép, thiếu tính thực tiễn.
Chỉ thị số 01-CT/TW của Bộ Chính trị yêu cầu: “Sau đợt nghiên cứu, học tập, quán triệt Nghị quyết Đại hội, các cấp ủy, tổ chức đảng, các cấp chính quyền, tổ chức chính trị - xã hội khẩn trương tiến hành xây dựng chương trình hành động thực hiện Nghị quyết Đại hội XIII của Đảng gắn với chức năng, nhiệm vụ, phù hợp với đặc điểm tình hình và điều kiện thực tế của địa phương, cơ quan, đơn vị, thể hiện sự quyết tâm, sáng tạo và bảo đảm tính khả thi, thiết thực, hiệu quả. Kết quả thực hiện chương trình hành động là cơ sở quan trọng để kiểm điểm, đánh giá tập thể cấp uỷ, chính quyền, cơ quan, đơn vị hằng năm và cả nhiệm kỳ”.
Thứ tư, tập trung lãnh đạo, chỉ đạo việc cụ thể hóa, thể chế hóa nghị quyết
Nghị quyết chỉ nêu các quan điểm, mục tiêu, phương hướng, nhiệm vụ một cách khái quát, ngắn gọn nên việc cụ thể hóa, thể chế hóa nghị quyết có ý nghĩa rất quan trọng, tạo cơ sở để toàn Đảng, toàn dân, cả hệ thống chính trị và các ngành, các cấp thực hiện. Vừa qua, việc cụ thể hóa các nghị quyết, chỉ thị, kết luận của Ban Chấp hành Trung ương, Bộ Chính trị, Ban Bí thư thành chương trình, kế hoạch tổ chức thực hiện ở một số địa phương, đơn vị còn chung chung, chỉ đạo thiếu quyết liệt, còn tình trạng trông chờ, ỷ lại cấp trên. Ngay từ Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII, Đảng ta đã nhấn mạnh: “Tập trung lãnh đạo, chỉ đạo kiên quyết, dứt điểm việc cụ thể hóa, thể chế hóa, tổ chức thực hiện nghị quyết”(3). Theo tinh thần đó, muốn tổ chức thực hiện tốt nghị quyết của Đảng cần tập trung lãnh đạo, chỉ đạo việc cụ thể hóa, thể chế hóa nghị quyết. Cấp ủy, tổ chức đảng các cấp cần cụ thể hóa nghị quyết vào kế hoạch, chương trình thực hiện nghị quyết và chương trình làm việc cả nhiệm kỳ, cũng như từng năm. Đảng đoàn Quốc hội, hội đồng nhân dân các tỉnh, thành phố phải lãnh đạo Quốc hội, hội đồng nhân dân các cấp thể chế hóa các nội dung cần thể chế hóa trong nghị quyết thành pháp luật. Ban Cán sự đảng Chính phủ, các bộ, ủy ban nhân dân cấp tỉnh, cơ quan tư pháp lãnh đạo các cơ quan này cụ thể hóa nghị quyết thành chương trình, kế hoạch, chính sách của cấp mình, ngành mình.
Chủ tịch Hồ Chí Minh từng dạy: “... muốn biết các nghị quyết có được thi hành không, thi hành có đúng không; muốn biết ai ra sức làm, ai làm qua chuyện, chỉ có một cách, là khéo kiểm soát”(4). Để hoàn thiện chế độ tổ chức thực hiện nghị quyết, phải thường xuyên và đổi mới hoạt động kiểm tra, đôn đốc việc thực hiện nghị quyết, chỉ thị của Đảng, bảo đảm tính hiệu quả. Đặc biệt, để quá trình thể chế hóa, cụ thể hóa thể hiện đầy đủ quan điểm, đường lối, chủ trương trong nghị quyết của Đảng, không bị chệch hướng hoặc bị “nhóm lợi ích” chi phối, trục lợi, cần phải tăng cường kiểm tra, giám sát.
Để nghị quyết của Đảng đi vào cuộc sống, hằng năm, ngay từ đầu năm, cấp ủy phải ban hành chương trình kiểm tra, giám sát việc thực hiện các nghị quyết phải thi hành. Trong đó, chú trọng kiểm tra, giám sát đối với tổ chức đảng, cấp ủy cấp dưới và tổ chức đảng, cấp ủy viên là lãnh đạo chính quyền và cấp ủy cơ quan chuyên môn trực thuộc ủy ban nhân dân trong việc cụ thể hóa và tổ chức thực hiện nghị quyết của Đảng. Ủy ban kiểm tra của Đảng cần xây dựng và chủ động thực hiện kế hoạch kiểm tra, giám sát việc tổ chức triển khai thực hiện nghị quyết của Đảng, định kỳ báo cáo cấp ủy kết quả kiểm tra, giám sát.
Sau mỗi cuộc kiểm tra, giám sát, phải kịp thời ban hành kết luận để đánh giá kết quả thực hiện, chỉ rõ những ưu điểm, hạn chế, những vấn đề cần được rút kinh nghiệm, khắc phục những sai sót; đồng thời, bổ sung, điều chỉnh nhiệm vụ, giải pháp để tiếp tục lãnh đạo, chỉ đạo thực hiện nghị quyết đạt hiệu quả hơn. Việc kiểm tra, đánh giá kết quả triển khai thực hiện nghị quyết của Đảng cần được coi là căn cứ quan trọng để đánh giá, xếp loại cấp ủy, tổ chức đảng, xếp loại chính quyền; đánh giá, xếp loại tập thể và cá nhân cán bộ lãnh đạo, quản lý, nhất là người đứng đầu.
Thứ sáu, chú trọng sơ kết, tổng kết thực hiện nghị quyết
Sơ kết, tổng kết thực hiện nghị quyết là một việc làm cần thiết trong tổ chức thực hiện nghị quyết, song lại là khâu yếu hiện nay của nhiều cấp ủy đảng. Còn không ít cấp ủy, tổ chức đảng chưa chủ động, ngại chỉ đạo sơ kết, tổng kết thực hiện nghị quyết, chỉ làm khi có yêu cầu của cấp trên hoặc làm qua loa, chiếu lệ. Chính vì vậy, yêu cầu cấp thiết hiện nay là cần coi trọng và đổi mới việc sơ kết, tổng kết thực hiện nghị quyết, chỉ thị của Đảng.
Hằng năm, căn cứ vào các chương trình, kế hoạch thực hiện nghị quyết đã xây dựng, các cấp ủy, tổ chức đảng có trách nhiệm cần rà soát các nghị quyết; trên cơ sở đó, tập trung chỉ đạo sơ kết, tổng kết các nghị quyết đến hạn sơ kết, tổng kết hoặc thấy thật sự cấp bách phải sơ kết, tổng kết với quy mô và yêu cầu thích hợp. Việc sơ kết, tổng kết phải có trọng tâm, trọng điểm và qua sơ kết, tổng kết phải rút ra được những kinh nghiệm bổ ích từ khâu lãnh đạo, chỉ đạo đến khâu triển khai thực hiện nghị quyết.
Cần lập các tiểu ban sơ kết, tổng kết nghị quyết gồm cả cán bộ hoạt động thực tiễn và các chuyên gia, nhà khoa học. Quá trình sơ kết, tổng kết cần tổ chức thành một đợt sinh hoạt chính trị để nâng cao nhận thức và thu hút, phát huy trí tuệ của toàn Đảng, toàn dân./.
--------------
(1) Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, Nxb. Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, 2021, t. II, tr. 217
(2) Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, 2011, t. 8, tr. 287
(3) Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII, Văn phòng Trung ương Đảng, Hà Nội, 2016, tr. 216
(4) Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t. 5, tr. 327