Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng với nhân dân thôn Tân Văn, xã Tượng Sơn, huyện Thạnh Hà, tỉnh Hà Tĩnh_Ảnh: TTXVN
Đảng Cộng sản Việt Nam là đội tiền phong của giai cấp công nhân, đồng thời là đội tiền phong và là đại biểu trung thành cho lợi ích của giai cấp công nhân, nhân dân lao động và của cả dân tộc Việt Nam. Trong suốt quá trình tồn tại và phát triển, Đảng đã lãnh đạo cách mạng Việt Nam đạt được nhiều thành tựu vô cùng to lớn và vẻ vang. Để đạt được những kết quả đó, Đảng đã phải thường xuyên xây dựng và chỉnh đốn, nâng cao năng lực lãnh đạo, sức chiến đấu của mình, đáp ứng yêu cầu của từng thời kỳ lịch sử cách mạng. Trong đó, việc dựa vào dân để xây dựng và chỉnh đốn được Đảng ta hết sức quan tâm và thực hiện nhất quán.
YÊU CẦU KHÁCH QUAN, QUAN ĐIỂM NHẤT QUÁN CỦA ĐẢNG CỘNG SẢN VIỆT NAM
Các nhà kinh điển của chủ nghĩa Mác - Lênin đều khẳng định vai trò quan trọng của nhân dân trong tiến trình lịch sử cách mạng: Nhân dân là chủ thể sáng tạo nên lịch sử và cách mạng là sự nghiệp của nhân dân dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản. Theo Hồ Chí Minh, sức mạnh của nhân dân là rất to lớn, tuy nhiên nếu được khéo léo tổ chức, tập hợp dưới sự lãnh đạo của Đảng thì sức mạnh đó sẽ là sức mạnh vô địch: “Có lực lượng dân chúng việc to tát mấy, khó khăn mấy làm cũng được. Không có, thì việc gì làm cũng không xong. Dân chúng biết giải quyết nhiều vấn đề một cách giản đơn, mau chóng, đầy đủ, mà những người tài giỏi, những đoàn thể to lớn, nghĩ mãi không ra”(1).
Trong quá trình lãnh đạo cách mạng, Đảng Cộng sản Việt Nam đã đúc kết được nhiều bài học có giá trị lý luận và thực tiễn cao. Một trong những bài học hàng đầu chính là phải lấy dân làm gốc, không được xa rời quần chúng nhân dân. Tức là mọi chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước phải được xây dựng trên cơ sở lợi ích, nguyện vọng của nhân dân. Mọi hành động xa rời quần chúng nhân dân và đi ngược lại quyền lợi của quần chúng nhân dân sẽ khiến cho sức mạnh của Đảng suy yếu. Ngược lại, nếu như Đảng trong sạch, vững mạnh thì lợi ích của nhân dân, dân tộc và đất nước sẽ được đảm bảo và không ngừng tăng lên. Vì vậy, mỗi người dân cần nhận thức đầy đủ về trách nhiệm và quyền hạn của mình trong việc tham gia xây dựng, chỉnh đốn Đảng, khắc phục những sai lầm, khuyết điểm của Đảng với mong muốn rất đúng đắn: Đảng trong sạch, vững mạnh hơn để lãnh đạo đất nước, dân tộc giàu mạnh hơn; “trong hoàn cảnh Đảng có sai lầm, khuyết điểm, nhân dân vẫn thiết tha mong đợi Đảng khắc phục sai lầm, đưa đất nước tiến lên. Đảng ta không thể phụ lòng mong đợi đó của nhân dân”(2).
Việc phát huy thực chất quyền làm chủ của nhân dân, tạo điều kiện thuận lợi để nhân dân tích cực, chủ động tham gia công tác xây dựng, chỉnh đốn Đảng là yêu cầu khách quan, thể hiện và đảm bảo rõ nét bản chất giai cấp công nhân, bản chất nhân dân của Đảng Cộng sản cầm quyền. Nhận thức rõ điều đó, Đảng ta luôn quán triệt, nhấn mạnh chủ trương dựa vào dân để xây dựng, chỉnh đốn Đảng; coi đó là nhiệm vụ quan trọng trong quá trình lãnh đạo cách mạng Việt Nam. Hiện nay, quan điểm của Đảng ta là gắn xây dựng chỉnh đốn Đảng với xây dựng, hoàn thiện hệ thống chính trị. Tức là dựa vào dân để xây dựng, chỉnh đốn Đảng cũng là dựa vào dân để xây dựng Nhà nước, xây dựng Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các tổ chức chính trị - xã hội. Qua đó góp phần thực hiện tốt và có hiệu quả mối quan hệ cơ bản, quan trọng: Đảng lãnh đạo, Nhà nước quản lý và Nhân dân làm chủ.
NHÂN DÂN TRỰC TIẾP VÀ GIÁN TIẾP THAM GIA XÂY DỰNG, CHỈNH ĐỐN ĐẢNG
Chủ trương dựa vào dân để xây dựng chỉnh đốn Đảng là chủ trương xuyên suốt, nhất quán của Đảng ta ngay từ khi mới thành lập và được nhấn mạnh và cụ thể hóa hơn nữa trong bối cảnh hiện nay. Từ Nghị quyết Trung ương 4 khóa XI về một số vấn đề cấp bách về xây dựng Đảng hiện nay; đến Nghị quyết Trung ương 4 khóa XII về tăng cường xây dựng, chỉnh đốn Đảng; ngăn chặn, đẩy lùi sự suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, những biểu hiện “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong nội bộ; đặc biệt là Kết luận Hội nghị lần thứ 4 khóa XIII về đẩy mạnh xây dựng, chỉnh đốn Đảng và hệ thống chính trị; kiên quyết ngăn chặn, đẩy lùi, xử lý nghiêm cán bộ, đảng viên suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, biểu hiện "tự diễn biến", "tự chuyển hoá và Văn kiện Đại hội Đảng lần thứ XIII đều khẳng định đầy đủ, rõ ràng chủ trương này. Trong các nhiệm vụ, giải pháp được trình bày trong Báo cáo của Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa XII về tổng kết công tác xây dựng Đảng và thi hành Điều lệ Đảng (tại Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII của Đảng) cũng khẳng định: “Thắt chặt hơn nữa mối quan hệ mật thiết giữa Đảng với nhân dân, dựa vào nhân dân để xây dựng Đảng. Tạo chuyển biến mạnh mẽ trong nhận thức, hành động của các cấp uỷ đảng, hệ thống chính trị về công tác dân vận. Tăng cường đổi mới, nâng cao hiệu quả công tác dân vận của các cơ quan đảng, nhà nước và cả hệ thống chính trị; phát huy vai trò của nhân dân tham gia xây dựng Đảng, xây dựng chính quyền và hệ thống chính trị trong sạch, vững mạnh trong tình hình mới”(3). Trong các nhiệm vụ và giải pháp chủ yếu của Kết luận Hội nghị lần thứ 4 khóa XIII có nêu: “Phát huy vai trò, trách nhiệm của các cơ quan dân cử, Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, các tổ chức chính trị - xã hội; thực sự dựa vào nhân dân để xây dựng, chỉnh đốn Đảng và hệ thống chính trị trong sạch, vững mạnh”(4).
Như vậy, có thể thấy, kế thừa quan điểm xuyên suốt trong lịch sử cách mạng Việt Nam, qua nội dung của Văn kiện Đại hội XIII và Hội nghị Trung ương 4 khóa XIII, chủ trương dựa và dân để xây dựng Đảng đã được thể hiện ngày càng cụ thể, rõ ràng hơn. Theo tinh thần Hội nghị Trung ương 4 khóa XIII,chủ trương dựa này được thể hiện ở hai khía cạnh cơ bản, đó là: Nhân dân trực tiếp và gián tiếp tham gia xây dựng và chỉnh đốn Đảng.
Các đại biểu biểu quyết tại Đại hội XIII của Đảng. Ảnh: Duy Linh
Thứ nhất, Đảng dựa vào nhân dân trực tiếp tham gia xây dựng, chỉnh đốn Đảng. Theo đó, nhân dân trực tiếp phản ánh, góp ý với cấp ủy đảng về công tác cán bộ, các chủ trương, đường lối lớn của Đảng. Nhân dân có quyền góp ý kiến, kiến nghị đối với tổ chức Đảng và chính quyền, phát hiện những yếu kém, khuyết điểm của tổ chức và cá nhân cán bộ, đảng viên, nhất là phát hiện những tiêu cực như tham nhũng, lãng phí, “lợi ích nhóm” hoặc nhân dân tham gia xây dựng chỉnh đốn đảng thông qua hoạt động đối thoại, tiếp công dân, tiếp nhận và kịp thời chỉ đạo xử lý đơn thư khiếu nại, tố cáo và giải quyết những kiến nghị, phản ánh của nhân dân nhất là những vấn đề liên quan đến đạo đức, lối sống của cán bộ, đảng viên . Ngoài ra, thông qua các tổ tự quản của nhân dân ở cơ sở, hoạt động của ban thanh tra nhân dân, các tổ giám sát cộng đồng cũng là hình thức quan trọng để nhân dân có thể tham gia xây dựng, chỉnh đốn Đảng, hiện nay. Để thực hiện nội dung này, trong những năm qua, Đảng, Nhà nước đã có nhiều chủ trương, biện pháp để ngày càng phát huy vai trò của nhân dân trong việc tham gia xây dựng chỉnh đốn Đảng một cách trực tiếp, hiệu quả. Cùng với Hiến pháp năm 2013, nhiều quy định đã được sửa đổi, bổ sung để phát huy quyền làm chủ thực sự của nhân dân, tạo cơ sở pháp lý vững chắc để thực hiện nghiêm túc phương châm “dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra, dân giám sát, dân thụ hưởng”(5) như: Quy chế dân chủ ở cơ sở; quy định về việc đảng viên tham gia sinh hoạt ở khu dân cư,… Những quy định này đã góp phần làm tăng thêm cơ hội để nhân dân góp ý để xây dựng và hoàn thiện đường lối, chủ trương của Đảng, chính sách pháp luật của Nhà nước; giám sát đảng viên, cán bộ, công chức, viên chức về nhiều mặt; tham gia xây dựng chỉnh đốn Đảng, xây dựng hệ thống chính trị trong sạch, vững mạnh.
Thứ hai, ngoài việc tham gia trực tiếp, nhân dân cũng gián tiếp tham gia xây dựng, chỉnh đốn đảng thông qua hoạt động của Quốc hội, Hội đồng nhân dân các cấp và các đại biểu do dân bầu; thông qua Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể chính trị xã hội. Nhân dân là người lựa chọn, bầu ra các đại biểu tham gia Quốc hội, Hội đồng nhân dân các cấp và các cơ quan dân cử. Thông qua hoạt động của Quốc hội, Hội đồng nhân dân các cấp những tâm tư, nguyện vọng của nhân dân đã đến nghị trường Quốc hội; những vấn đề nhân dân quan tâm, bức xúc, những nội dung cần tháo gỡ về mặt cơ chế, chính sách, pháp luật… đã được bàn bạc, thảo luận công khai, xử lý phù hợp. Qua đó, nâng cao hiệu lực, hiệu quả hoạt động của Quốc hội nói riêng và các cơ quan dân cử nói chung. Thông qua hoạt động của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các tổ chức chính trị - xã hội, mỗi cán bộ, đảng viên và nhân dân có thể tham gia giám sát các cơ quan, tổ chức đảng trong việc thực hiện các nhiệm vụ theo đúng chức năng, quyền hạn của cơ quan, đơn vị mình; tham gia giám sát cán bộ, đảng viên, nhất là những đảng viên có chức có quyền, những người làm ở những lĩnh vực dễ nảy sinh vi phạm… Qua đó góp phần nâng cao chất lượng, hiệu quả nhiều mặt trong công tác xây dựng Đảng: công tác cán bộ, kiểm tra, giám sát, việc chấp hành và tổ chức thực hiện các chủ trương, nghị quyết của Đảng.
THỰC HIỆN TỐT VÀ HIỆU QUẢ CHỦ TRƯƠNG DỰA VÀO DÂN ĐỂ XÂY DỰNG ĐẢNG
Trong những năm qua, mặc dù nhận được sự quan tâm, chỉ đạo sát sao của Đảng và cả hệ thống chính trị trong việc thực hiện chủ trương dựa vào dân để xây dựng, chỉnh đốn Đảng, tuy nhiên việc thực hiện trong thực tế vẫn còn có nhiều vấn đề khó khăn, hạn chế. Hội nghị Trung ương 4 nhận định: “Một bộ phận cán bộ, đảng viên, trong đó có cả cán bộ lãnh đạo, quản lý nhận thức chưa đầy đủ tính chất, tầm quan trọng của công tác xây dựng, chỉnh đốn Đảng… Hoạt động giám sát của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, các tổ chức chính trị - xã hội và nhân dân đối với việc tu dưỡng, rèn luyện đạo đức của cán bộ, đảng viên chưa hiệu quả”(6). Chính vì vậy, để thực hiện tốt và hiệu quả hơn chủ trương dựa vào dân để xây dựng, chỉnh đốn đảng, cần thực hiện một số nội dung cơ bản như sau:
Một là, thực hiện dân chủ rộng rãi, trước hết là dân chủ trong Đảng. Phát huy dân chủ được coi là một trong những yếu tố quan trọng hàng đầu để nhân dân có thể tham gia hiệu quả trong việc xây dựng Đảng, xây dựng hệ thống chính trị, cũng là cơ sở quan trọng để Đảng có thể dựa vào dân thực hiện xây dựng, chỉnh đốn Đảng. Điều 2, Hiến pháp năm 2013 có quy định: “Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam là nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của Nhân dân, do Nhân dân, vì Nhân dân… Tất cả quyền lực của nhà nước thuộc về Nhân dân mà nền tảng là liên minh giữa giai cấp công nhân với giai cấp nông dân và đội ngũ trí thức”(7). Điều đó khẳng định bản chất của chế độ ta, chế độ do nhân dân lao động làm chủ. Trong việc thực hiện quyền làm chủ của nhân dân cần chú trọng thực hiện một cách nền nếp, thực chất, tránh hình thức. Dân chủ phải được thực hành rộng rãi, từ dân chủ trong Đảng đến dân chủ trong toàn xã hội, dân chủ ở các cấp, các địa phương đến các lĩnh vực của đời sống xã hội như: kinh tế, chính trị, văn hóa, xã hội. Do vậy, cần tiếp tục khẳng định vai trò chủ thể, vị trí trung tâm của quần chúng nhân dân trong quá trình xây dựng, phát triển, bảo vệ đất nước; trong quá trình xây dựng, chỉnh đốn Đảng, xây dựng hệ thống chính trị.
Các cấp bộ đảng, chính quyền cần tuyên truyền, vận động mỗi người dân nhận thức rõ hơn về vai trò, trách nhiệm của mình trong việc tham gia xây dựng, chỉnh đốn Đảng, hệ thống chính trị: "Công việc đổi mới, xây dựng là trách nhiệm của dân. Sự nghiệp kháng chiến, kiến quốc là công việc của dân. Chính quyền từ xã đến Chính phủ trung ương do dân cử ra. Đoàn thể từ Trung ương đến xã do dân tổ chức nên"(8). Mỗi người dân cũng cần nhận thức rõ rằng thực hiện nhiệm vụ xây dựng, chỉnh đốn Đảng giúp Đảng và hệ thống chính trị trong sạch, vững mạnh toàn diện, cũng là để bảo vệ quyền, lợi ích chính đáng của nhân dân, dân tộc và đất nước. Khi đã nhận thức rõ và đầy đủ, mỗi người dân sẽ tự giác hoặc các tổ chức đảng, chính quyền các cấp có thể vận động nhân dân tham gia đóng góp, xây dựng đảng, xây dựng và bảo vệ các thiết chế bảo đảm và phát huy quyền làm chủ của nhân dân một cách thuận lợi và hiệu quả hơn. Cùng với đó, cần chủ động rà soát, bổ sung, cụ thể hóa những nội dung phát huy dân chủ được quy định trong hiến pháp, pháp luật, các văn bản của Đảng và trong hệ thống chính trị. Các biểu hiện coi thường nhân dân, hạn chế quyền làm chủ của nhân dân dưới mọi hình thức đều sẽ dẫn đến những hậu quả khôn lường, làm giảm uy tín, niềm tin của nhân dân về Đảng; do vậy cần kiên quyết đấu tranh, không để tình trạng này xuất hiện và lan rộng.
Hai là, xây dựng cơ chế phù hợp, tạo điều kiện thuận lợi cho nhân dân tham gia xây dựng, chỉnh đốn Đảng. Đảng, Nhà nước ta luôn xác định dân là gốc, luôn tin tưởng, tôn trọng và phát huy quyền làm chủ của nhân dân trong thực tế, đồng thời luôn kiên trì thực hiện đúng phương châm “Dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra, dân giám sát, dân thụ hưởng”. Trước hết Đảng, Nhà nước cần đổi mới cơ chế và quy trình trong việc xây dựng, triển khai thực hiện nhiệm vụ lãnh đạo, quản lý các cấp, nhất là trong công tác cán bộ và thực hiện những chủ trương, chính sách lớn của Đảng, Nhà nước theo hướng phát huy dân chủ, phát huy vai trò của nhân dân. Nhân dân có thể tham gia đóng góp ý kiến ở những khâu quan trọng trong quá trình xây dựng, ban hành, thực hiện các chính sách liên quan đến quyền và lợi ích chính đáng, hợp pháp của nhân dân. Từng bước hoàn thiện và đẩy mạnh thực hiện các quy chế dân chủ ở cơ sở, quy chế về giám sát và phản biện xã hội của Mặt trận Tổ quốc và các tổ chức chính trị - xã hội, các văn bản pháp luật liên quan đến quyền làm chủ của nhân dân, dân chủ ở cơ sở… Cần phát huy hơn nữa vai trò của nhân dân trong việc đánh giá, giám sát đội ngũ cán bộ về thực hiện chức trách, nhiệm vụ, các vấn đề liên quan đến phẩm chất, đạo đức, lối sống…
Để nhân dân thuận lợi tham gia xây dựng, chỉnh đốn Đảng thì việc tạo điều kiện cần thiết để nhân dân có thể tiếp cận với các thông tin chính thống từ phía các cơ quan của Đảng, Nhà nước là điều hết sức cần thiết. Đảng, Nhà nước cần quy định đầy đủ, thực hiện nghiêm túc chế độ cung cấp thông tin kịp thời, chính xác cho quần chúng nhân dân bằng những hình thức phù hợp. Cần tăng cường công khai, minh bạch trong thông tin trong công tác cán bộ, các vấn đề nhạy cảm, dễ nảy sinh sai phạm.
Ba là, tiếp tục chăm lo, nâng cao đời sống vật chất và tinh thần cho nhân dân. Muốn phát huy vai trò làm chủ của nhân dân, dựa vào dân để xây dựng, chỉnh đốn Đảng thì trước hết Đảng, Nhà nước phải tiếp tục triển khai thực hiện tốt những chủ trương, chính sách đảm bảo quyền lợi ích chính đáng, hợp pháp của nhân dân; nâng cao chất lượng đời sống mọi mặt cho người dân, thu hẹp khoảng cách giàu nghèo, đảm bảo an sinh xã hội, giải quyết những vấn đề bức xúc hiện nay. Đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân được cải thiện sẽ góp phần nâng cao hơn nữa niềm tin của nhân dân vào sự lãnh đạo của Đảng, Nhà nước, từ đó vai trò của nhân dân trong việc tham gia xây dựng Đảng trong sạch, vững mạnh sẽ ngày càng được khẳng định và hiệu quả, chất lượng đóng góp của nhân dân cũng được nâng cao hơn.
Bốn là, đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng đối với Mặt trận Tổ quốc và các tổ chức chính trị - xã hội. Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các tổ chức chính trị xã hội phải thực sự gần dân, sát dân, là cầu nối giữa nhân dân với Đảng, đóng vai trò quan trọng trong việc xây dựng khối đại đoàn kết toàn dân tộc, chăm lo, bảo vệ lợi ích của nhân dân, vận động nhân dân tham gia đóng góp, xây dựng phát triển đất nước. Các cấp bộ đảng cần tăng cường lãnh đạo, chỉ đạo để Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các tổ chức chính trị - xã hội có thể chủ động, tích cực, sáng tạo trong việc phát huy vai trò của nhân dân, phát huy dân chủ, tạo điều kiện thuận lợi để nhân dân tham gia đóng góp xây dựng Đảng, xây dựng hệ thống chính trị, đặc biệt là việc nhân dân tham gia giám sát các cơ quan, tổ chức đảng, hệ thống chính trị thực hiện chức năng nhiệm vụ của mình; trong việc giám sát cán bộ, đảng viên nhất là những cán bộ đảng viên có chức có quyền. Cần tập trung giám sát, phản biện trong quá trình xây dựng chủ trương, nghị quyết, đường lối lớn của Đảng; ban hành các chính sách, quy hoạch phát triển kinh tế xã hội của các địa phương, đơn vị, đảm bảo bám sát thực tiễn, hợp ý Đảng - lòng Dân, tạo sự đồng thuận trong toàn xã hội.
Năm là, xây dựng đội ngũ cán bộ các cấp, trong đó đặc biệt chú trọng đội ngũ cán bộ lãnh đạo, quản lý đủ năng lực, phẩm chất, thực sự hết lòng hết sức phục vụ Tổ quốc, phụng sự nhân dân. Chủ tịch Hồ Chí Minh có căn dặn: Muôn việc thành công hoặc thất bại đều do cán bộ tốt hoặc kém. Thực tiễn đã chứng minh, chủ trương đường lối cho dù có rất đúng đắn và sáng suốt đến đâu nhưng nếu cán bộ kém về năng lực, yếu về phẩm chất, thiếu trách nhiệm, triển khai thực hiện không tốt thì chủ trương đó khó đi vào cuộc sống: “Khi có chính sách đúng, thì sự thành công hoặc thất bại của chính sách đó là do nơi cách tổ chức công việc, nơi lựa chọn cán bộ, và do nơi kiểm tra. Nếu ba điều ấy sơ sài thì chính sách đúng mấy cũng vô ích”. Do vậy, năng lực, phẩm chất của mỗi cán bộ đảng viên, nhất là cán bộ cấp chiến lược sẽ ảnh hưởng lớn đến quá trình thực hiện nhiệm vụ, ảnh hưởng trực tiếp đến uy tin, danh dự của Đảng, đến mối quan hệ Đảng – Dân và niềm tin của nhân dân đối với Đảng. Vì vậy cần chú trọng xây dựng đội ngũ cán bộ, đảng viên đủ phẩm chất, năng lực, thực sự trọng dân, gần dân, hiểu dân, có trách nhiệm và biết phát huy vai trò, quyền làm chủ của nhân dân. Mỗi cán bộ, đảng viên, mỗi tổ chức đảng cần phải kiên quyết đấu tranh, đẩy lùi những biểu hiện thoái hóa, biến chất trong tổ chức, đơn vị mình, cùng nhân dân xây dựng, chỉnh đốn Đảng trong sạch, vững mạnh./.
Dựa vào dân để xây dựng và chỉnh đốn Đảng là kinh nghiệm quý báu của Đảng ta trong quá trình lãnh đạo cách mạng Việt Nam. Hội nghị Trung ương 4 khóa XIII của Đảng đã tiếp tục khẳng định vai trò, tầm quan trọng của nhân dân trong công tác xây dựng và chỉnh đốn Đảng. Sức mạnh của Đảng bắt nguồn từ sức mạnh của nhân dân. Công tác xây dựng, chỉnh đốn Đảng không phải chỉ là nhiệm vụ của riêng Đảng mà xây dựng Đảng trong sạch, vững mạnh, ngày càng nâng cao năng lực cầm quyền và sức chiến đấu còn là trách nhiệm của nhân dân. Muốn vậy Đảng cần gắn bó mật thiết với nhân dân, phát huy dân chủ, đảm bảo thực sự vai trò làm chủ của nhân dân, tạo điều kiện thuận lợi để nhân dân tham gia xây dựng, chỉnh đốn Đảng một cách thực chất, hiệu quả. |
PGS. TS. Lê Văn Lợi
Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh
__
(1) Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia Sự thật, H, 2011, t.5, tr. 335.
(2) Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đảng toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, H, 2006, t.47, tr.362-363.
(3) Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, Nxb. Chính trị quốc gia Sự thật, H, 2021, t.II, tr. 248
(4) (5) (6) Kết luận Hội nghị lần thứ tư Ban Chấp hành Trung ương Đảng khoá XIII.
(7) Hiến pháp nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, Nxb. Chính trị quốc gia, H, 2013, tr 8-9.
(8) Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t. 6, tr. 232.