Phóng viên Tạp chí TT&TT đã có cuộc trao đổi với ông Nguyễn Việt Bằng - Phó Tổng Giám đốc VNPT Technology - về quá trình CĐS của Công ty và thành quả có được nhờ quá trình này.
PV: Ông có nhận xét thế nào về thực trạng CĐS hiện nay tại Việt Nam?
Ông Nguyễn Việt Bằng: Thực trạng CĐS tại Việt Nam hiện nay rất tích cực, rõ nét bằng sự vào cuộc mạnh mẽ của các cơ quan nhà nước (CQNN), các tập đoàn, DN và bản thân người dân.
Chương trình CĐS quốc gia được Thủ tướng Chính phủ phê duyệt từ tháng 6/2020 đã thể hiện sự quyết tâm của Chính phủ Việt Nam về mục tiêu CĐS một cách toàn diện bao gồm: chính quyền số, kinh tế số và xã hội số, với quan điểm lấy người dân là trung tâm của quá trình chuyển đổi. Tháng 3 năm nay, Thủ tướng Chính phủ tiếp tục ban hành 2 văn bản quan trọng nhằm hiện thực hóa chương trình CĐS quốc gia:
Thứ nhất là Quyết định 27/QĐ-UBCĐSQG về kế hoạch hoạt động của Ủy ban Quốc gia với nội dung: Về Chính phủ số hướng tới mục tiêu 80% dịch vụ công trực tuyến phát sinh hồ sơ, 50% thủ tục hành chính (TTHC) xử lý trực tuyến, 100% hồ sơ, kết quả giải quyết TTHC được số hóa, 50% cơ quan nhà nước cung cấp dữ liệu mở đầy đủ theo danh mục, 50% báo cáo của cơ quan hành chính thực hiện trực tuyến.
Thứ hai là Quyết định số 411/QĐ-TTg, phê duyệt Chiến lược quốc gia phát triển kinh tế số và xã hội số đến năm 2025, định hướng đến năm 2030 với những mục tiêu phát triển cụ thể như: tỷ trọng kinh tế số đạt 20% GDP; tỷ trọng kinh tế số trong từng ngành, lĩnh vực đạt tối thiểu 10%; tỷ trọng thương mại điện tử trong tổng mức bán lẻ đạt trên 10%; tỷ lệ doanh nghiệp sử dụng hợp đồng điện tử đạt trên 80%; tỷ lệ DN nhỏ và vừa sử dụng nền tảng số đạt trên 50%; tỷ lệ nhân lực lao động kinh tế số trong lực lượng lao động đạt trên 2%...
Cuối tháng 5/2022, Diễn đàn Cấp cao CĐS Việt Nam - châu Á 2022 (Vietnam - Asia DX Summit 2022) đã xuất bản bộ khung hướng dẫn CĐS chi tiết cho 22 ngành kinh tế trọng điểm tại Việt Nam như Du lịch, Giáo Dục, Dược phẩm .... để giúp các DN tiếp cận được các giải pháp chuyển đổi số phù hợp nhất với thực tế của từng DN.
Bộ TT&TT đã giao cho các DN công nghệ số Việt Nam chủ trì phát triển 35 nền tảng số quốc gia thuộc 6 nhóm gồm: hạ tầng số, công nghệ số cốt lõi, chính phủ số và 3 nhóm lĩnh vực khác nhau có ứng dụng các công nghệ hiện đại nhất hiện nay như AI, Blockchain, IoT, VR... Ngoài các tập đoàn công nghệ lớn như VNPT, FPT, Viettel thì theo thống kê hiện nay, Việt Nam có khoảng 64.000 DN công nghệ số.
Đến nay, VNPT-Tech đã đưa ra thị trường một số sản phẩm góp phần thúc đẩy CĐS cho hộ gia đình như các thiết bị Camera AI, Wifi mesh thế hệ 6, và đặc biệt là nền tảng chuyển đổi số One DX, nền tảng hợp nhất dịch vụ cho các DN SME...
Nhu cầu CĐS của DN và CQNN là rất lớn. Theo khảo sát của VCCI có tới 98% số DN kỳ vọng có sự thay đổi trong hoạt động sản xuất, kinh doanh khi thực hiện CĐS, trong đó lớn nhất là khả năng giúp giảm chi phí (chiếm tỷ lệ hơn 71%), giúp DN hạn chế giấy tờ (61,4%) đưa thêm giá trị gia tăng vào trong sản phẩm, nâng cao chất lượng sản phẩm và dịch vụ (45,3%). Còn với các cơ quan nhà nước thì hầu hết các bộ ngành, cơ quan đều đã và đang triển khai toàn diện các lĩnh vực dịch vụ công (thuế, bảo hiểm xã hội, điện nước...).
PV: Là một DN công nghệ, VNPT Technology đã có quá trình CĐS như thế nào? Công ty có những thuận lợi và khó khăn gì trong quá trình CĐS và đã giải quyết những khó khăn đó như thế nào?
Ông Nguyễn Việt Bằng: Là DN công nghệ được thành lập trên cơ sở các liên doanh với các hãng công nghệ viễn thông hàng đầu thế giới Alcatel - Lucent (Pháp) và Siemens (CHLB Đức), VNPT Technology được kế thừa nguồn nhân lực, quy trình quản lý, sản xuất, điều hành, tài chính, các công cụ quản lý..., do vậy ngay từ đầu đã đạt mức độ số hóa trong các hoạt động tương đối cao so với mặt bằng chung, tạo thuận lợi đáng kể khi thực hiện CĐS.
Tuy nhiên các lĩnh vực hoạt động của công ty ngày càng đa dạng hơn, đồng thời xu thế mạnh mẽ CĐS trên thế giới với khung kiến trúc ngày càng hoàn thiện, đòi hỏi công ty phải kịp thời xây dựng phương án triển khai CĐS toàn bộ các hoạt động của công ty một cách tổng thể và đồng bộ.
Chúng tôi đã xây dựng khung CĐS tổng thể dựa trên tham khảo các khung kiến trúc chuyển đổi số doanh nghiệp mới trên thế giới, thay đổi áp dụng cho phù hợp môi trường Việt Nam và đặc thù hoạt động của công ty. Đây là một bước khá khó khăn trong việc CĐS DN nói chung, bởi rất khó có hệ thống giải pháp công cụ nào đáp ứng ngay được cho mọi doanh nghiệp.
Bên cạnh việc CĐS các hoạt động quản trị điều hành (nhân lực, tài chính, tài liệu văn bản...) như các doanh nghiệp vừa và nhỏ khác, công ty có nhiều mảng hoạt động lớn vừa có tính chất độc lập tương đối vừa có ràng buộc như nghiên cứu phát triển sản phẩm phần cứng và phần mềm, sản xuất, kinh doanh, dịch vụ kỹ thuật... đòi hỏi từ khung CĐS tổng thể, mỗi mảng hoạt động lại cần có phương án chuyển đổi số cụ thể.
CĐS là một quá trình liên tục, do vậy sau khi đánh giá hiện trạng, chúng tôi xây dựng lộ trình triển khai dựa trên khung CĐS đã được thống nhất. Trong đó một số điểm chính mà các DN cần quan tâm bao gồm:
- Một trong các vấn đề cốt yếu trong CĐS là con người, cần thông suốt về ý chí thực hiện CĐS đối với toàn bộ nhân viên công ty. Là DN công nghệ và nhân lực đa số đã có nhiều năm kinh nghiệm làm việc trong môi trường liên doanh với các quy trình, công cụ số hóa khá bài bản của các nước tiên tiến nên về mặt nhân lực CĐS, công ty có những thuận lợi khi tiếp cận những công cụ hệ thống CĐS mới, tuy nhiên mặt khác đó cũng mang lại ít nhiều khó khăn khi cần phá bỏ thói quen, quy trình cũ.
- Công ty đã thành lập tổ CĐS bao gồm tất cả lãnh đạo các đơn vị và do một phó Tổng Giám đốc phụ trách, nhằm triển khai CĐS tới từng nhân viên. Đào tạo và truyền thông nội bộ thường xuyên về các hệ thống CĐS đã triển khai, khuyến khích cũng như có các biện pháp bắt buộc nhân viên sử dụng khai thác hệ thống công cụ số.
- Hạ tầng mạng, máy chủ ảo hóa và cơ sở dữ liệu (CSDL) tập trung, đảm bảo mở rộng dễ dàng và nhanh chóng, tối ưu chi phí, đầu tư sát theo nhu cầu.
- Từng bước xây dựng mới hoặc sửa đổi các quy trình nghiệp vụ tại từng đơn vị, theo chuẩn BPM nhằm số hóa quy trình trên hệ thống một cách nhanh chóng.
Đánh giá chi tiết các phương án giải pháp kỹ thuật, xác định lựa chọn hình thức tự phát triển, hợp tác hay mua sản phẩm giải pháp đối với từng thành phần trong khung CĐS một cách tối ưu nhất về chi phí, nguồn lực và thời gian. Đây là một bước quan trọng đảm bảo việc thành công của CĐS. Với năng lực là đơn vị xây dựng nhiều giải pháp công cụ CĐS cho DN, chúng tôi có thuận lợi trong bước này.
- Triển khai từng thành phần theo khung CĐS và lộ trình đã được thống nhất
PV: Quá trình CĐS mang lại những lợi ích như thế nào cho quý Công ty?
Ông Nguyễn Việt Bằng: Quá trình CĐS toàn diện được bắt đầu đúng quãng thời gian diễn ra đại dịch COVID-19, mặc dù mới là phần đầu trong lộ trình CĐS, nhưng cũng đã góp phần quan trọng đảm bảo hoạt động của Công ty trong suốt 2 năm qua, duy trì được doanh thu, lợi nhuận Công ty và thu nhập của nhân viên, dù là nhân viên làm online (nhiều lúc tới 70 - 80%) hay đi làm trực tiếp, dù nghỉ trong các trường hợp F0...
Trong điều kiện đi lại quốc tế đóng băng cả hai chiều đi và đến Việt Nam, vận chuyển hàng hóa và giao dịch quốc tế hết sức hạn chế, CĐS đã góp phần không nhỏ để sản xuất và kinh doanh quốc tế của Công ty vẫn được duy trì trong 2 năm đại dịch vừa qua.
CSDL tập trung và hệ thống báo cáo dashboard thời gian thực về mọi mặt kinh doanh, sản xuất, nghiên cứu phát triển giúp cho lãnh đạo luôn được cập nhật số liệu, kịp thời ra quyết định, tăng hiệu quả sản xuất kinh doanh và đối phó tốt hơn với các biến động của thị trường và xã hội.
Với những thông tin cập nhật và hữu ích, gắn liền với các hoạt động của Công ty và nhân viên, cổng thông tin nội bộ của Công ty trở nên “sống” hơn, cho phép nhân viên truy nhập tra cứu cả các thông tin được phân quyền cho cá nhân như lương, sổ sức khỏe... Thư viện với nhiều đầu sách chọn lọc về chuyên môn và cuộc sống được triển khai, sử dụng hệ thống quản lý điện tử tích hợp trên cổng thông tin cho phép nhân viên mượn trả sách online bằng tài khoản nhân viên.
PV: Được biết quý Công ty đã phát triển nhiều sản phẩm, dịch vụ và nền tảng số để cung cấp ra thị trường. Ông chia sẻ một vài kết quả sau khi thương mại hóa những sản phẩm, dịch vụ này và hiệu quả mà nó mang lại cho các tổ chức, DN?
Ông Nguyễn Việt Bằng: Là DN hoạt động trong lĩnh vực viễn thông công nghệ thông tin, tham gia triển khai hầu hết các thành phần của mạng viễn thông tiên tiến, ngay từ những ngày đầu thành lập hơn 10 năm trước đây, chúng tôi đã có điều kiện tiếp cận và chủ trương phát triển các sản phẩm có quy mô nhà mạng (carrier grade), có tính chất nền tảng, là cơ sở để nhanh chóng phát triển các sản phẩm khác dựa trên một kiến trúc thống nhất.
Chính vì vậy, trong những năm gần đây chúng tôi đã sớm bắt kịp xu thế, hoặc có thể nói là cuộc cách mạng nền tảng, phát triển sản phẩm nền tảng đã trở thành một phần chính trong chiến lược của Công ty, tiêu biểu như: Nền tảng ONE Telco cho các nhà mạng Viễn thông; Nền tảng ONE IoT, nền tảng phái sinh ONE Home cho Hộ gia đình và Nền tảng ONE DX hợp nhất công nghệ CĐS cho DN. Qua giai đoạn triển khai và đưa vào thương mại hóa, các nền tảng đã đạt được một số kết quả khả quan:
Nền tảng ONE Telco: Là nền tảng quản lý tập trung thiết bị quy mô lớn (toàn quốc hoặc DN lớn), đặc biệt là các thiết bị viễn thông, với mục tiêu hỗ trợ quản lý đa chủng loại (GPON ONT, OLT, WIFI AP, STB, router, IoT device...), đa phương thức (TR-069, SNMP, CAPWAP,...), đa nhà cung cấp. Hệ thống đảm bảo tính real-time, độ tin cậy, khả năng mở rộng, hỗ trợ triển khai trên hạ tầng cloud và đã được kiểm chứng qua thời gian vận hành.
ONE Telco đã được đưa vào kinh doanh từ năm 2017, đã được triển khai cho VNPT, MobiFone và một số nhà mạng quốc tế tại tại Thái Lan, Indonesia, Myanmar, đang quản lý gần 10 triệu thiết bị bao gồm ONT, Set-top box, Access Point, Mesh AP...
Nền tảng ONE Telco đã nhận được giải Ba (không có giải Nhất) Nhân tài đất Việt 2021 vừa qua trong hạng mục sản phẩm CNTT thành công.
Các hệ thống quản lý thiết bị dựa trên ONE Telco đã đem lại doanh thu gần 10 triệu USD, thay thế các hệ thống quản lý thiết bị riêng biệt của các hãng nước ngoài, đồng thời cắt giảm được chi phí ngoại tệ mua licence phải trả cho nước ngoài.
Nền tảng ONE IoT: Đón đầu xu thế phát triển kết nối vạn vật IoT, VNPT Technology đã bắt đầu phát triển nền tảng này từ 2015. Đây là sản phẩm nền tảng của nền tảng, cho phép từ đó xây dựng nên các nền tảng phái sinh cho các lĩnh vực, ngành dọc khác nhau như nhà thông minh (ONE Home), nông nghiệp thông minh, thành phố thông minh. Nền tảng IoT đã mang về Cúp Vàng giải thưởng Stevie Award châu Á Thái Bình Dương về đổi mới sáng tạo năm 2018, Top 10 Việt Nam lĩnh vực A-IoT, đồng thời là nền tảng IoT đạt chứng chỉ OneM2M đầu tiên tại Việt Nam.
Một trong những giải pháp nổi bật nhất mang tính ứng dụng cao được phát triển trên nền tảng IoT là Giải pháp ONE Home: Đây là một nền tảng kết nối thông minh, có khả năng kết nối các hệ sinh thái Nhà thông minh của các nhà cung cấp hiện có trên thị trường Việt Nam, cho phép kết nối đa dạng chủng loại thiết bị, tạo hệ sinh thái hợp nhất phong phú và chủ động cho người dùng lựa chọn theo nhu cầu cá nhân.
Giải pháp đã vinh dự nhận cú đúp giải thưởng Sao Khuê và giải Ba Nhân tài đất Việt năm 2022, cho nhóm sản phẩm tiềm năng. Giải pháp được các hội đồng chuyên môn đánh giá cao ở ba yếu tố: Kết nối thông minh; Kết nối mở, đa giao thức và Xử lý thông minh với các thuật toán tối ưu hiệu năng, tối ưu trải nghiệm ngay từ phần kết nối thiết bị tới các thuật toán xử lý, điều khiển tại biên.
ONE Home đã được triển khai trên mạng lưới từ cuối năm 2021, các sản phẩm bước đầu được cung cấp dưới dịch vụ Home Safe của VNPT, với hơn 30.000 camera thông minh cho các hộ gia đình và DN nhỏ.
Bên cạnh ONE Home, các giải pháp khác về IoT cũng được công ty chú trọng và cung cấp ra thị trường, bao gồm Giải pháp Nông nghiệp thông minh và truy xuất nguồn gốc (ONE Farm), đã cung cấp cho các DN, trung tâm Ứng dụng chuyển giao công nghệ và các đơn vị điển hình về mô hình thí điểm Nông nghiệp công nghệ cao tại các tỉnh Phú Yên, Ninh Bình, ....
Nền tảng ONE DX: Năm 2021, Nền tảng hợp nhất công nghệ chuyển đổi số doanh nghiệp vừa và nhỏ - ONE DX của VNPT Technology đã vinh dự đoạt Giải thưởng Sao Khuê và Giải thưởng Đổi mới, sáng tạo phát triển DN lần thứ II. ONE DX được xây dựng theo hướng tiếp cận mới về CĐS cho DN vừa và nhỏ.
Nền tảng này cho phép các Nhà vận hành nền tảng có thể cung cấp các sản phẩm có tính cạnh tranh cao XaaS (Anything as a Service - Bất cứ điều gì là Dịch vụ) một cách tự động toàn trình hoặc bán trình, tối ưu quy trình và rút ngắn thời gian đưa các sản phẩm (đã hoàn tất) ra thị trường từ vài tháng xuống còn vài ngày. Nhờ đó, các đối tác tham gia vào của hệ sinh thái cung cấp dịch vụ một cách đơn giản hiệu quả, mang lại các sản phẩm thiết thực, hữu dụng và đa dạng cho cộng đồng doanh nghiệp vừa và nhỏ Việt Nam.
Khách hàng tiêu biểu sử dụng nền tảng CĐS ONE DX là Tập đoàn Bưu chính Viễn thông Việt Nam (VNPT) với Nền tảng CĐS DN OneSME đã được Bộ Thông tin và Truyền thông lựa chọn trong chương trình SME DX đồng hành CĐS cùng DN nhỏ và vừa (SME) trong Hội nghị đẩy mạnh Chương trình hỗ trợ DN nhỏ và vừa CĐS vào tháng 3/2022.
Thông qua một điểm chạm duy nhất nền tảng OneSME, DN SME cũng như hộ kinh doanh có thể tự trải nghiệm hoặc trao đổi với tư vấn viên online để việc tìm kiếm, lựa chọn, mua sắm trực tuyến và sử dụng nhiều loại dịch vụ khác nhau dưới dạng thuê bao định kỳ có tính hiệu quả cao, từ mức cơ bản đến nâng cao và đáp ứng hầu hết các nhu cầu về hoạt động và quản lý của mình.
Trong 5 tháng đầu năm 2022, số lượng sản phẩm dịch vụ của VNPT cung cấp ra thị trường đã tăng thêm 21% so với tháng 12/2021. Hiện nay có khoảng 18.000 DN đang sử dụng OneSME, doanh thu và số lượng đơn hàng tăng liên tục 200-500% mỗi tháng, minh chứng hướng đi đúng và triển vọng lớn của nền tảng.
PV: Công ty có kế hoạch phát triển tiếp theo trong thời gian tới như thế nào, thưa ông?
Ông Nguyễn Việt Bằng: Trong giai đoạn tới, Công ty thực hiện các chương trình hành động phát triển các mục tiêu chiến lược của công ty trong giai đoạn 2020-2025, tiếp tục phát huy các sản phẩm đã thành công và phát triển các sản phẩm mới, Nghiên cứu phát triển sản xuất các sản phẩm “Make in Viet Nam”, công nghệ cho nhà mạng Viễn thông, sản phẩm cho DN và sản phẩm cho cá nhân/hộ gia đình.
Chúng tôi tiếp tục tập trung phát triển các dòng sản phẩm cho Viễn thông làm các dòng sản phẩm và công nghệ chủ lực, nhằm tạo ra giá trị và vị thế của DN công nghệ trong nền kinh tế số. Mặt khác, Công ty song hành cùng các nhà mạng trong việc phân phối và cung cấp các Sản phẩm cho DN và hộ gia đình dưới dạng dịch vụ XaaS (Everything as a Service) làm một lợi thế trong mô hình cạnh tranh. Sản phẩm được phát triển trên các nền tảng công nghệ lõi, tối ưu và phù hợp với các đặc trưng riêng của các thị trường ngách để tạo ra các điểm cạnh tranh của sản phẩm (unique selling point). Chủ động hoàn toàn trong việc nghiên cứu, phát triển từ thiết bị, nền tảng và ứng dụng để tăng tính linh hoạt trong phát triển và đóng gói sản phẩm, giảm tính phụ thuộc vào các nhà cung cấp thứ 3.
- Dòng sản phẩm Viễn thông, phát triển các thiết bị đầu cuối mở rộng dải sản phẩm và các công nghệ cho các dòng thiết bị hiện tại (BRCĐ, BRKD) và hướng tới các thiết bị đầu cuối cho mạng 5G. Phát triển các nền tảng giúp các nhà mạng có thể quản lý hạ tầng mạng lưới và phát triển, cung cấp các dịch vụ mới trên nền tảng 5G.
- Dòng sản phẩm Doanh nghiệp với 02 chiến lược: Thứ nhất, phát triển nền tảng hợp nhất công nghệ CĐS để các nhà phát triển có thể hoàn thiện nhanh chóng sản phẩm giải pháp của mình. Trong đó hướng tới nền tảng kết nối, nền tảng điện toán và nền tảng phát triển ứng dụng cho DN. Thứ hai, phối hợp với các đối tác để đóng gói giải pháp hoàn thiện các sản phẩm theo 08 nhóm chuyên ngành được ưu tiên phát triển trong chiến lược phát triển nền kinh tế số Việt Nam năm 2030 tầm nhìn 2045.
- Dòng sản phẩm cá nhân/hộ gia đình: lấy thiết bị Home Gateway làm hạt nhân phát triển hệ sinh thái CĐS hộ gia đình. Xung quanh đó là những thiết bị và ứng dụng số giúp tạo ra những công dân số trong nền kinh tế số, và kiến tạo những giá trị tiện ích mới cho cuộc sống của người dân.
PV: Theo ông, Nhà nước nên có những hỗ trợ gì về chính sách để tạo điều kiện thúc đẩy những công ty công nghệ phát triển nhanh hơn, giúp chiến lược CĐS quốc gia thuận lợi hơn?
Ông Nguyễn Việt Bằng: Trong những năm gần đây, các DN công nghệ trong nước không chỉ gia công hay thực hiện từng phần sản phẩm, mà đã dần có những sản phẩm “Make in Viet Nam”, làm chủ toàn bộ sản phẩm từ thiết kế đến phát triển sản phẩm và sản xuất tại Việt Nam. Một số sản phẩm đã cạnh tranh sòng phẳng và thay thế nhập ngoại. Các sản phẩm phần cứng phần mềm của VNPT Technology hầu hết thật sự “Make in Viet Nam”, được chứng nhận thông qua đạt 01 giải vàng Make in Viet Nam 2021, giải Chìa khóa Vàng 2020 về bảo mật.
Những biến động vừa qua trên thế giới càng cho thấy tầm quan trọng của việc tự chủ, làm chủ hoàn toàn sản phẩm công nghệ, giảm thiểu ảnh hưởng bên ngoài tới an ninh, kinh tế.
Mặc dù đã có nhiều chính sách Nhà nước hỗ trợ về thuế, hỗ trợ DN công nghệ cao, đưa ra các danh mục ưu tiên mua sắm công, thu hút nhân tài ... nhưng về mặt thực thi chưa có nhiều hiệu quả. Thật sự các DN công nghệ Việt Nam cần hỗ trợ nhiều hơn thế để tránh thua thiệt ngay trên sân nhà trong cạnh tranh.
Về đầu vào, nên có cơ chế chính sách phù hợp hơn cho việc mua công nghệ, mua bản quyền công nghệ cao, để doanh nghiệp, đặc biệt là DN có vốn nhà nước, có thể kịp thời tiếp cận công nghệ mới của thế giới, không lỡ mất cơ hội đưa sản phẩm ra thị trường đúng thời điểm. Ngoài ra mở rộng thêm danh mục linh kiện được ưu đãi thuế cũng góp phần giảm giá thành, tăng tính cạnh tranh cho sản phẩm trong nước.
Về đầu ra sản phẩm, nên có thêm cơ chế chính sách khuyến khích trong thầu, mua sắm sản phẩm sản xuất trong nước có cùng chất lượng với sản phẩm nhập khẩu. Thực tế hiện nay nhiều trường hợp sản phẩm trong nước còn bị kiểm tra đánh giá khắt khe hơn sản phẩm nhập ngoại.
Về mặt nhân lực, nên có chính sách mềm dẻo hơn về lương đối với nhân lực công nghệ nói chung và nhân lực chất lượng cao nói riêng, đặc biệt các DN có vốn nhà nước, để có thể giảm tình trạng cạnh tranh không sòng phẳng với các DN nước ngoài, DN tư nhân, bị “chảy máu” chất xám. Thực tế nhiều trường hợp các DN nước ngoài do trả lương cao, hút nguồn lực chất lượng cao ngay từ khi mới ra trường, nhưng không được giao các công việc tương xứng với năng lực, dần sẽ làm “cùn” đi một lượng không nhỏ nguồn lực chất lượng cao này, mà lẽ ra họ có thể phát huy được tốt hơn. Ngoài ra nếu có chính sách ưu đãi về thuế thu nhập cá nhân cho nhân lực công nghệ cũng làm tăng sự cạnh tranh của DN công nghệ cũng như sản phẩm Việt Nam.
Ngoài các chính sách hiện hữu, nhà nước nên có thêm các chính sách ưu đãi, hỗ trợ cụ thể về tài chính, nguồn lực... song hành cùng Chiến lược Quốc gia 411/QĐ-TTg về phát triển kinh tế số và xã hội số, tạo điều kiện thuận lợi cho cộng đồng DN số đầu tư phát triển nguồn lực, sản phẩm, tiên phong thực hiện CĐS cho chính mình và các sản phẩm dịch vụ cung cấp ra thị trường.
PV: Xin chân thành cảm ơn những chia sẻ của Ông!