Kể từ khi Tòa Trọng tài phụ lục VII Công ước Luật Biển 1982 (sau đây gọi là “Tòa Trọng tài”) chính thức được thành lập[1] theo đơn kiện của Philippines, cho đến khi ra phán quyết cuối cùng ngày 12/7/2016, TQ không dưới 5 lần tuyên bố bác bỏ thẩm quyền của Tòa Trọng tài và hiệu lực pháp lý của các phán quyết.
Ảnh chụp từ vệ tinh.
Bài viết này thảo luận những quan điểm của TQ và các học giả thân TQ phản đối phiên Toà; và chỉ ra tại sao những quan điểm này đều không có cơ sở trong UNCLOS nói riêng, luật pháp quốc tế nói chung.
Lập luận 1: Ngoại lệ về quyền lịch sử
Philippines yêu cầu Tòa Trọng tài ra phán quyết về giá trị pháp lý của Đường 9 đoạn và quyền lịch sử của TQ tại Biển Đông
[2]. TQ cho rằng yêu cầu này liên quan trực tiếp đến quyền lịch sử của nước này tại Biển Đông, nằm trong ngoại lệ được nêu tại Công ước Luật Biển 1982 (sau đây gọi là “UNCLOS”). Do đó, Tòa Trọng tài không có thẩm quyền giải quyết các vấn đề được Philippines nêu trong đơn kiện.
Tại Phán quyết về thẩm quyền ngày 29/10/2015, Tòa Trọng tài đã bảo lưu, chưa đưa ra quyết định về thẩm quyền của Tòa đối với 2 điểm này
[3]. Đến ngày 12/7/2016, trong Phán quyết cuối cùng, Tòa Trọng tài không những tuyên bố có thẩm quyền xem xét vấn đề này mà còn bác bỏ toàn bộ yêu sách về quyền lịch sử của TQ tại Biển Đông, khẳng định sự vô giá trị về mặt pháp lý của Đường 9 đoạn
[4].
Theo Tòa Trọng tài, ngoại lệ được quy định tại Điều 298 của UNCLOS nhằm loại trừ thẩm quyền của Tòa đối với các tranh chấp liên quan đến “vịnh lịch sử” hay “danh nghĩa lịch sử”, và yêu cầu của Philippines không nằm trong phạm vi của ngoại lệ này.
Thứ nhất, Biển Đông không phải là một vịnh dù là về mặt địa lý hay pháp lý
[5]. Thứ hai, từ những hành vi của TQ tại Biển Đông (như ban hành lệnh cấm đánh cá, phân lô khai thác dầu khí và những tuyên bố tôn trọng tự do hàng hải và tự do hàng không), Toà kết luận bản chất yêu sách Đường 9 đoạn của TQ tại Biển Đông là quyền lịch sử đối với tài nguyên khoáng sản tại đây
[6].
Khái niệm “quyền lịch sử” không đồng nghĩa với “danh nghĩa lịch sử” được quy định tại Điều 298. Danh nghĩa lịch sử gắn liền với chủ quyền của một quốc gia đối với những vùng biển nhất định trong suốt một thời gian dài và phải được thể hiện qua sự kiểm soát độc quyền của quốc gia đó.
Bên cạnh đó, Tòa Trọng tài cũng nhấn mạnh việc tuyên bố danh nghĩa lịch sử của các quốc gia phải không bị phản đối từ các quốc gia khác.
Do vậy, từ các hành vi của TQ tại Biển Đông, Toà kết luận yêu sách của TQ thông qua đường 9 đoạn chỉ được xem là tuyên bố về quyền lịch sử và không thể xem là TQ tuyên bố danh nghĩa lịch sử tại đây. Vì vậy, yêu sách này của TQ không phải là một ngoại lệ được quy định tại Điều 298 của UNCLOS
[7].
Đi vào vấn đề nội dung về giá trị pháp lý của tuyên bố về quyền lịch sử thông qua yêu sách Đường 9 đoạn, Tòa nhận thấy quyền lịch sử về khai thác tài nguyên sinh vật và khoáng sản đã được nêu ra trong quá trình xây dựng UNCLOS.
Vì vậy, tuy khái niệm “quyền lịch sử” tồn tại trong luật biển quốc tế, nhưng khi trở thành thành viên của UNCLOS, các quốc gia đã từ bỏ quyền lịch sử đối với các vùng biển để chấp nhận các quyền của quốc gia ven biển đối với tài nguyên trong Vùng đặc quyền kinh tế (EEZ) và thềm lục địa được thiết lập theo quy định của Công ước
[8].
Đồng thời, Tòa cũng phân tích các quy định của UNCLOS về quyền chủ quyền và quyền tài phán của quốc gia ven biển tại EEZ và thềm lục địa và khẳng định các quyền này không đồng nghĩa với khái niệm “quyền lịch sử” hình thành từ trước khi Công ước có hiệu lực
[9].
Trên cơ sở đó, Tòa khẳng định UNCLOS chỉ cho phép các quốc gia thành viên có quyền chủ quyền và quyền tài phán đối với tài nguyên nằm trong EEZ và thềm lục địa của mình. Do đó, cái gọi là “quyền lịch sử” mà TQ tuyên bố là hoàntoàn không phù hợp với UNCLOS. Từ đó, Tòa khẳng định yêu sách Đường 9 đoạn của TQ tại Biển Đông hoàn toàn không có giá trị pháp lý
[10].
Lập luận 2: TQ có ngoại lệ về chủ quyền đối với các thực thể tại Trường Sa
Trong đơn kiện gửi đến Tòa Trọng tài, Philippines yêu cầu Tòa làm rõ bản chất pháp lý của tám thực thể tại quần đảo Trường Sa là đảo, đá hay những thực thể lúc nổi lúc chìm. Theo TQ, vấn đề này liên quan đến việc xác định chủ quyền đối với các thực thể và liên quan đến việc phân định các vùng biển tại khu vực Trường Sa.
TQ cho rằng theo quy định của UNCLOS, Tòa không có thẩm quyền giải quyết cả hai vấn đề này. Tuy nhiên, trong Phán quyết về thẩm quyền, Tòa Trọng tài đã khẳng định một tranh chấp có thể bao gồm nhiều vấn đề pháp lý khác nhau, việc một hoặc một số vấn đề nằm ngoài thẩm quyền giải quyết của Tòa, không làm mất đi thẩm quyền của Tòa đối với các vấn đề còn lại
[11]. Quan điểm này đã nhiều lần được các Tòa án quốc tế khẳng định trong các án lệ trước đây
[12].
Vì việc xác định bản chất pháp lý của các thực thể tại Trường Sa chính là giải thích và áp dụng các điều 13 và điều 121 của UNCLOS nên Tòa Trọng tài hoàn toàn có thẩm quyền giải quyết vấn đề này.
Trong Phán quyết ngày 12/7/2016, Tòa Trọng tài đã có quyết định cực kỳ quan trọng về bản chất pháp lý của không chỉ với tám thực thể Philippines yêu cầu. Theo đó, sau khi xem xét các bằng chứng xác thực và đáng tin cậy nhất về địa lý, địa chất và địa mạo, Tòa đã khẳng định không một thực thể nào tại Trường Sa hội đủ các yếu tố để được coi là “đảo” theo quy định tại Điều 121 của UNCLOS
[13].
Kết luận này của Tòa đồng nghĩa với việc khẳng định không một đảo nào thuộc quần đảo Trường Sa tạo cho Trung Quốc quyền có vùng đặc quyền kinh tế. Từ đó, gián tiếp loại bỏ yêu sách chủ quyền của TQ tại các thực thể mà Philippines nêu trong hồ sơ kiện.
Phạm Ngọc Minh Trang, Khoa Quan hệ quốc tế, ĐHKHXH&NV, TP. HCM.
*Bài viết được dựa trên báo cáo trình bài tại tọa đàm quốc tế “Cập nhật các vấn đề pháp lý và chính sách tại Biển Đông sau phán quyết của Tòa Trọng tài” do Trung tâm Nghiên cứu Quốc tế và Trung tâm Nghiên cứu chiến lược và chính sách quốc gia, Trường Đại học KHXH&NV, Tp HCM đồng tổ chức.
---------
[2] Yêu sách 1 và 2 của Philippines đệ trình lên Toà Trọng tài phụ lục VII. Phán quyết (cuối cùng), Vụ kiện Philippines vs Trung Quốc, (Toà Trọng tài phụ lục VII, UNCLOS), ngày 12/7/2016, đoạn 169.
[3] Phán quyết về thẩm quyền, đd, đoạn 398.
[4] Phán quyết (cuối cùng), đd, đoạn 276-278.
[5] Phán quyết (cuối cùng), đd, đoạn 205.
[6] Phán quyết (cuối cùng) đd, đoạn 214.
[7] Phán quyết (cuối cùng), đd, đoạn 229.
[8] Phán quyết (cuối cùng), đd, đoạn 239.
[9] Phán quyết (cuối cùng), đd, đoạn 246.
[10] Phán quyết (cuồi cùng), đd, đoạn 276-278.
[11] Phán quyết về thẩm quyền, đd, đoạn 152.
[13] Phán quyết (cuối cùng), đd, đoạn 626
Phạm Ngọc Minh Trang, Khoa Quan hệ quốc tế, ĐHKHXH&NV, TP. HCM.