Khơi dậy mạnh mẽ tinh thần yêu nước, ý chí tự lực tự cường, sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc và khát vọng phát triển đất nước phồn vinh, hạnh phúc

Thứ sáu, 24/09/2021 10:53

Trong suốt quá trình lãnh đạo cách mạng, Đảng ta luôn dành sự quan tâm đặc biệt cho việc xây dựng và thực hiện chủ trương, chính sách khơi dậy và phát huy sức mạnh của tinh thần yêu nước, ý chí tự lực tự cường, sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc để lãnh đạo Nhân dân ta giành thắng lợi trong sự nghiệp đấu tranh giải phóng dân tộc, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa.

DVC-2-.jpg

Đồng chí Đỗ Văn Chiến, Bí thư Trung ương Đảng, Chủ tịch Ủy ban Trung ương Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, Trưởng Tiểu ban Vận động và huy động xã hội thuộc Ban Chỉ đạo Quốc gia phòng chống dịch COVID-19 kêu gọi và phát động tiếp tục đợt vận động “Toàn dân đoàn kết, ra sức phòng, chống dịch COVID-19”.

QUAN ĐIỂM CỦA ĐẢNG VÀ TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH VỀ TẦM QUAN TRỌNG,  Ý NGHĨA CỦA VIỆC KHƠI DẬY MẠNH MẼ TINH THẦN YÊU NƯỚC, Ý CHÍ TỰ LỰC TỰ CƯỜNG, SỨC MẠNH ĐẠI ĐOÀN KẾT TOÀN DÂN TỘC VÀ KHÁT VỌNG PHÁT TRIỂN ĐẤT NƯỚC PHỒN VINH, HẠNH PHÚC

Cương lĩnh chính trị đầu tiên của Đảng (tháng 02/1930) đã xác định: Đảng là đội tiên phong của giai cấp công nhân, thu phục giai cấp, lãnh đạo dân chúng nông dân; liên lạc với tiểu tư sản, trí thức, trung nông; tranh thủ, phân hóa trung tiểu địa chủ và tư sản dân tộc, đoàn kết với các dân tộc bị áp bức và giai cấp vô sản thế giới để hình thành mặt trận thống nhất đánh đuổi đế quốc, thực hiện khẩu hiệu nước Việt Nam độc lập, người cày có ruộng. Tiếp đó, lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc và Đảng ta chủ trương, quyết định thành lập Mặt trận Việt Minh nhằm đoàn kết mọi người dân Việt Nam yêu nước trong một mặt trận dân tộc thống nhất rộng rãi để cùng tranh đấu vì độc lập, tự do, làm nên thành công của cuộc Cách mạng Tháng Tám năm 1945, đưa nhân dân ta từ thân phận nô lệ trở thành người làm chủ; tiếp tục hoàn thành hai cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp và đế quốc Mỹ, xây dựng và bảo vệ vững chắc Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa. 

Đảng ta khẳng định: “Nhờ ngọn cờ độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội, thuận với lòng người, Đảng đã phát triển được tổ chức khắp nước, sớm xây dựng nền tảng lực lượng là công nhân, nông dân và trí thức, đoàn kết các tầng lớp nhân dân trong Mặt trận dân tộc thống nhất, hình thành các tổ chức quần chúng và lực lượng chính trị, xây dựng lực lượng vũ trang, được nhân dân đùm bọc, che chở, kẻ thù nào cũng đánh thắng”(1); “Từ thời đại các Vua Hùng đến thời đại Hồ Chí Minh, đặc điểm quý báu nhất của khối đại đoàn kết dân tộc của chúng ta là tỏa khắp non sông mà quy về một mối, dựa trên một nền, xoay quanh một trục. Hễ là người Việt Nam, ai cũng có lòng yêu nước, đều là con cháu Lạc Hồng”(2).

Đến Đại hội ĐBTQ lần thứ XIII của Đảng, khơi dậy mạnh mẽ tinh thần yêu nước, ý chí tự lực tự cường, sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc và khát vọng phát triển đất nước phồn vinh, hạnh phúc đã được Đảng ta kế thừa và phát triển lên một tầm cao mới: khẳng định khát vọng phát triển đất nước phồn vinh, hạnh phúc là sức mạnh nội sinh để phát triển đất nước. Đây là một trong số những chủ điểm có vị trí, ý nghĩa rất đặc biệt trong Nghị quyết Đại hội ĐBTQ lần thứ XIII của Đảng, cụ thể là:

Thứ nhất, là một nội dung chính trong chủ đề của Đại hội: “Tăng cường xây dựng, chỉnh đốn Đảng và hệ thống chính trị trong sạch, vững mạnh; khơi dậy khát vọng phát triển đất nước, phát huy ý chí, sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc kết hợp với sức mạnh thời đại; tiếp tục đẩy mạnh toàn diện, đồng bộ công cuộc đổi mới; xây dựng và bảo vệ vững chắc Tổ quốc, giữ vững môi trường hòa bình, ổn định; phấn đấu đến giữa thế kỷ XXI nước ta trở thành nước phát triển, theo định hướng xã hội chủ nghĩa”.

Thứ hai, là một trong năm quan điểm chỉ đạo tiếp tục thực hiện đường lối đổi mới của Đảng: “Khơi dậy mạnh mẽ tinh thần yêu nước, ý chí tự lực tự cường, sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc và khát vọng phát triển đất nước phồn vinh, hạnh phúc” (quan điểm chỉ đạo thứ ba).

Thứ ba, là thành tố trong Mục tiêu tổng quát toàn nhiệm kỳ Đại hội XIII của Đảng: “Khơi dậy khát vọng phát triển đất nước phồn vinh, hạnh phúc, phát huy ý chí và sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc kết hợp với sức mạnh thời đại”.

Thứ tư, là một trong những định hướng phát triển đất nước giai đoạn 2021-2030: “Khơi dậy truyền thống yêu nước, niềm tự hào dân tộc, niềm tin, khát vọng phát triển đất nước phồn vinh, hạnh phúc” (định hướng thứ tư).

Thứ năm, là chủ đề chính của nhiệm vụ trọng tâm thứ tư trong nhiệm kỳ Đại hội XIII của Đảng: “Khơi dậy khát vọng phát triển đất nước phồn vinh, hạnh phúc”.

Thứ sáu, là nội dung chính của đột phá chiến lược thứ ba: “Khơi dậy khát vọng phát triển đất nước phồn vinh, hạnh phúc, phát huy giá trị văn hóa, sức mạnh con người Việt Nam, tinh thần đoàn kết, tự hào dân tộc trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc”.

Cần nhấn mạnh rằng, lần đầu tiên trong chủ đề Đại hội ĐBTQ lần thứ XIII của Đảng và Báo cáo chính trị sử dụng cụm từ “khát vọng phát triển đất nước phồn vinh, hạnh phúc”. Đây là một điểm rất mới và là điểm nhấn rất quan trọng thể hiện bước phát triển mới trong tư duy lý luận của Đảng ta. Khát vọng là yếu tố tinh thần, sự mong muốn, khao khát, quyết tâm dồn sức lực, trí tuệ để đạt cho được mục tiêu; là nguồn động lực để thực hiện những nhiệm vụ nặng nề nhằm đạt được ước mơ, không khuất phục trước mọi thử thách… để cho mọi tầng lớp nhân dân đem hết sức mình cùng Đảng và Nhà nước đưa đất nước đi tới phồn vinh, hùng cường, thịnh vượng, sánh vai với các nước trong khu vực và thế giới. Lịch sử thế giới cho thấy sự phát triển của nhiều quốc gia phát triển hùng mạnh được bắt nguồn chính từ những khát vọng vươn lên trở thành một dân tộc hùng cường, một đất nước phát triển, tiêu biểu như Nhật Bản, Hàn Quốc, Singapore…

Trong quá trình hoạt động cách mạng, Chủ tịch Hồ Chí Minh luôn quan tâm nghiên cứu, tổng kết kinh nghiệm phong trào cách mạng Việt Nam và phong trào cách mạng của nhiều nước trên thế giới. Người đã sớm chỉ rõ một trong những nguyên nhân sâu xa dẫn đến thất bại của các phong trào cách mạng Việt Nam trong những năm cuối thế kỷ XIX, đầu thế kỷ XX và phong trào đấu tranh giải phóng dân tộc ở các nước thuộc địa là chưa biết tổ chức và đoàn kết các lực lượng dân tộc thành một khối thống nhất. Người nhấn mạnh: “Dân ta có một lòng nồng nàn yêu nước. Đó là một truyền thống quý báu của ta. Từ xưa đến nay, mỗi khi Tổ quốc bị xâm lăng, thì tinh thần ấy lại sôi nổi, nó kết thành một làn sóng vô cùng mạnh mẽ, to lớn, nó lướt qua mọi sự nguy hiểm khó khăn”. 

Tại Lễ ra mắt Đảng Lao động Việt Nam (ngày 03/3/1951), Chủ tịch Hồ Chí Minh đã thay mặt Đảng tuyên bố trước toàn thể dân tộc: “Mục đích của Đảng lao động Việt Nam có thể gồm trong 8 chữ là: ĐOÀN KẾT TOÀN DÂN, PHỤNG SỰ TỔ QUỐC”(3). Với cá nhân mình, Người khẳng định: “Tôi chỉ có một sự ham muốn, ham muốn tột bậc là làm sao cho nước ta được hoàn toàn độc lập, dân ta được hoàn toàn tự do, đồng bào ai cũng có cơm ăn, áo mặc, ai cũng được học hành”. Đó không chỉ là ham muốn, khát vọng của Người, mà cũng thể hiện quan điểm, tư tưởng của Đảng ta: “Chúng ta cần một xã hội mà trong đó sự phát triển là thực sự vì con người, chứ không phải vì lợi nhuận mà bóc lột và chà đạp lên phẩm giá con người. Chúng ta cần sự phát triển về kinh tế đi đôi với tiến bộ và công bằng xã hội, chứ không phải gia tăng khoảng cách giàu nghèo và bất bình đẳng xã hội. Chúng ta cần một xã hội nhân ái, đoàn kết, tương trợ lẫn nhau, hướng tới các giá trị tiến bộ, nhân văn, chứ không phải cạnh tranh bất công, “cá lớn nuốt cá bé” vì lợi ích vị kỷ của một số ít cá nhân và các phe nhóm. Chúng ta cần sự phát triển bền vững, hài hòa với thiên nhiên để bảo đảm môi trường sống trong lành cho các thế hệ hiện tại và tương lai, chứ không phải để khai thác, chiếm đoạt tài nguyên, tiêu dùng vật chất vô hạn độ và hủy hoại môi trường. Và chúng ta cần một hệ thống chính trị mà quyền lực thực sự thuộc về nhân dân, do nhân dân và phục vụ lợi ích của nhân dân, chứ không phải chỉ cho một thiểu số giàu có”(4). 

Trong tư tưởng Hồ Chí Minh, đại đoàn kết dân tộc là vấn đề có ý nghĩa chiến lược, cơ bản, nhất quán và lâu dài, xuyên suốt tiến trình cách mạng, được Người tổng kết trong lời dạy thiêng liêng: “Đoàn kết, đoàn kết, đại đoàn kết; Thành công, thành công, đại thành công”(5). Người chỉ rõ, trong quá trình xây dựng khối đại đoàn kết toàn dân phải đứng vững trên lập trường giai cấp công nhân, giải quyết hài hòa mối quan hệ giai cấp - dân tộc để tập hợp lực lượng, không bỏ sót một lực lượng nào, miễn là lực lượng đó có lòng trung thành và sẵn sàng phục vụ Tổ quốc, không phản bội lại quyền lợi của Nhân dân. 

Để thực hành đoàn kết rộng rãi, Chủ tịch Hồ Chí Minh nhấn mạnh Đảng, Nhà nước cần có niềm tin vào Nhân dân; dựa vào dân, sống và đấu tranh vì hạnh phúc của Nhân dân là nguyên tắc tối cao: “Đạo nghĩa là chính sách của Chính phủ đối với dân chúng - chính sách này phải hợp với nguyện vọng và quyền lợi của dân chúng. Đối với dân, Chính phủ phải thi hành một nền chính trị liêm khiết như cải thiện đời sống của nhân dân, cứu tế thất nghiệp, sửa đổi chế độ xã hội, phát triển kinh tế, văn hóa.v.v... Có như thế dân chúng mới đoàn kết chung quanh Chính phủ, mới vì quyền lợi thiết thân của mình mà hy sinh…”(6). Nguyên tắc này vừa là sự tiếp nối truyền thống dân tộc “nước lấy dân làm gốc”, “chở thuyền và lật thuyền cũng là dân”, đồng thời là sự quán triệt sâu sắc nguyên lý mácxít “cách mạng là sự nghiệp của quần chúng”. 

Chủ tịch Hồ Chí Minh luôn nhấn mạnh, Nhân dân là chỗ dựa vững chắc của Đảng, là nguồn sức mạnh vô tận và vô địch của khối đại đoàn kết, quyết định thắng lợi của cách mạng Việt Nam. Trong bài nói chuyện tại Hội nghị đại biểu Mặt trận Liên Việt toàn quốc tháng 01/1955, Người chỉ rõ: “Đại đoàn kết tức là trước hết phải đoàn kết đại đa số nhân dân, mà đại đa số nhân dân ta là công nhân, nông dân và các tầng lớp nhân dân lao động khác. Đó là nền gốc của đại đoàn kết. Nó cũng như cái nền của nhà, gốc của cây. Nhưng đã có nền vững, gốc tốt, còn phải đoàn kết các tầng lớp nhân dân khác”(7). 

Tinh thần đoàn kết rộng rãi như vậy của Chủ tịch Hồ Chí Minh là định hướng cho việc xây dựng khối đại đoàn kết toàn dân trong suốt tiến trình cách mạng Việt Nam, từ cách mạng giải phóng dân tộc, tới cách mạng dân chủ nhân dân và từ cách mạng dân chủ nhân dân tới cách mạng xã hội chủ nghĩa; là cơ sở để khơi dậy mạnh mẽ tinh thần yêu nước, ý chí tự lực tự cường, sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc và khát vọng phát triển đất nước phồn vinh, hạnh phúc theo tinh thần Nghị quyết Đại hội ĐBTQ lần thứ XIII của Đảng.

TIẾP TỤC KHƠI DẬY MẠNH MẼ TINH THẦN YÊU NƯỚC, Ý CHÍ TỰ LỰC TỰ CƯỜNG, SỨC MẠNH ĐẠI ĐOÀN KẾT TOÀN DÂN TỘC VÀ KHÁT VỌNG PHÁT TRIỂN ĐẤT NƯỚC PHỒN VINH, HẠNH PHÚC THEO TINH THẦN NGHỊ QUYẾT ĐẠI HỘI XIII 

Để hiện thực hóa Nghị quyết Đại hội ĐBTQ lần thứ XIII của Đảng nói chung, khơi dậy mạnh mẽ tinh thần yêu nước, ý chí tự lực tự cường, sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc và khát vọng phát triển đất nước phồn vinh, hạnh phúc thì cần đưa Nghị quyết thành chương trình, kế hoạch hành động với mục tiêu, lộ trình cụ thể. Chỉ thị số 01-CT/TW ngày 09/3/2021 của Bộ Chính trị về việc nghiên cứu, học tập, quán triệt, tuyên truyền và triển khai thực hiện Nghị quyết Đại hội ĐBTQ lần thứ XIII của Đảng đã yêu cầu phải xây dựng chương trình hành động của từng bộ, ngành, địa phương theo tinh thần của Chủ tịch Hồ Chí Minh: “Chủ trương một, biện pháp mười, quyết tâm hai mươi” để hiện thực hóa Nghị quyết Đại hội ĐBTQ lần thứ XIII trong thực tiễn cuộc sống. 

Đảng ta cũng nêu rõ, thời gian tới, dự báo tình hình thế giới, khu vực tiếp tục diễn biến phức tạp, khó lường. Hòa bình, hợp tác, liên kết phát triển vẫn là xu thế lớn nhưng cạnh tranh chiến lược giữa một số quốc gia, đối tác lớn trong khu vực, trên biển tiếp tục diễn ra gay gắt. Xung đột thương mại gia tăng và những tác động tiêu cực của đại dịch Covid-19 có thể kéo dài, tiềm ẩn nhiều nguy cơ, thách thức lớn. Ở trong nước, sau 35 năm đổi mới, thế và lực của nước ta đã lớn mạnh hơn nhiều (mức tăng trưởng trung bình khoảng 7% mỗi năm; GDP năm 2020 đạt 342,7 tỷ đôla Mỹ (USD), trở thành nền kinh tế lớn thứ tư trong ASEAN. Thu nhập bình quân đầu người tăng khoảng 17 lần, lên mức 3.512 USD; Việt Nam đã ra khỏi nhóm các nước có thu nhập thấp từ năm 2008). Tuy nhiên, chúng ta vẫn gặp nhiều khó khăn, thách thức. Nguy cơ rơi vào bẫy thu nhập trung bình và tụt hậu đang hiện hữu; nguồn lực còn hạn hẹp trong khi phải đáp ứng cùng lúc các yêu cầu rất lớn cho đầu tư phát triển, bảo đảm an sinh xã hội, củng cố quốc phòng, an ninh... Những tác động, ảnh hưởng của thiên tai, dịch bệnh, biến đổi khí hậu ngày càng nghiêm trọng, khốc liệt.

Bối cảnh đó đặt ra nhiều vấn đề mới, yêu cầu mới phức tạp hơn, thách thức hơn đối với sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc; đòi hỏi chúng ta phải tiếp tục tăng cường đoàn kết, chung sức, đồng lòng, đổi mới mạnh mẽ, năng động, sáng tạo, nỗ lực phấn đấu cao nhất để thực hiện thắng lợi các mục tiêu, nhiệm vụ phát triển kinh tế - xã hội 5 năm 2021-2025 và Chiến lược phát triển 10 năm 2021-2030, tầm nhìn đến năm 2045 theo Nghị quyết Đại hội ĐBTQ lần thứ XIII của Đảng. Trong đó, về yếu tố nội sinh, chúng ta cần khơi dậy mạnh mẽ tinh thần yêu nước, ý chí tự lực tự cường, khát vọng phát triển đất nước phồn vinh, hạnh phúc, phát huy sức mạnh tổng hợp của cả hệ thống chính trị để phấn đấu đến năm 2025, Việt Nam trở thành nước đang phát triển có công nghiệp theo hướng hiện đại, vượt qua mức thu nhập trung bình thấp; đến năm 2030, kỷ niệm 100 năm thành lập Đảng, phấn đấu trở thành nước đang phát triển có công nghiệp hiện đại, thu nhập trung bình cao; đến năm 2045, kỷ niệm 100 năm thành lập nước, phấn đấu trở thành nước phát triển, thu nhập cao. 

Mục tiêu, quan điểm đã rõ, thời gian tới các chương trình, kế hoạch hành động phải thể hiện rõ mọi hoạt động của cả hệ thống chính trị, của mỗi cán bộ, đảng viên phải khơi dậy mạnh mẽ tinh thần yêu nước, ý chí tự lực tự cường, sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc và khát vọng phát triển đất nước phồn vinh, hạnh phúc, phục vụ lợi ích của Nhân dân. Từ chủ trương, chính sách cho đến xử lý, giải quyết công việc hàng ngày, đều tuyệt đối phải vì lợi ích của người dân, xuất phát từ nguyện vọng và yêu cầu của Nhân dân. Chúng ta phải giải quyết hài hòa các quan hệ lợi ích trong xã hội; bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp, chính đáng của Nhân dân; không ngừng cải thiện, nâng cao đời sống vật chất và tinh thần của Nhân dân. Vì vậy, cần thực hiện tốt những nội dung trọng tâm sau:

Một là, đối với giai cấp công nhân: cần tiếp tục xây dựng giai cấp công nhân hiện đại, lớn mạnh; nâng cao bản lĩnh chính trị, trình độ học vấn, chuyên môn, kỹ năng nghề nghiệp, tác phong công nghiệp, kỷ luật lao động thích ứng với cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư. Từng bước chuyển từ tư duy sản xuất công nghiệp sang kinh tế công nghiệp, để kinh tế công nghiệp trở thành động lực vật chất chủ yếu cho sự phát triển nhanh và bền vững đất nước. Tăng cường tuyên truyền, giáo dục chính trị, tư tưởng cho giai cấp công nhân. Chăm lo đời sống vật chất, tinh thần, nhà ở và phúc lợi xã hội cho công nhân; bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp, chính đáng của công nhân. Đổi mới tổ chức và hoạt động của công đoàn phù hợp với cơ cấu lao động, nhu cầu, nguyện vọng của công nhân và yêu cầu hội nhập quốc tế; tập trung làm tốt vai trò đại diện, bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp, chính đáng của công nhân, tập thể công nhân. Chúng ta cần có định hướng, quản lý tốt việc thành lập và hoạt động của các tổ chức của công nhân tại doanh nghiệp ngoài tổ chức công đoàn hiện nay.

Hai là, đối với giai cấp nông dân: cần phát huy mạnh mẽ vai trò chủ thể của nông dân - lực lượng lao động, lực lượng sản xuất đông đảo nhất trong quá trình phát triển nông nghiệp, kinh tế nông thôn gắn với tiếp tục thực hiện có hiệu quả chính sách nông nghiệp, nông dân và nông thôn, tạo ra những bước chuyển vững chắc từ sản xuất nông nghiệp sang kinh tế nông nghiệp, từ tư duy khối lượng sang tư duy giá trị. Gắn xây dựng giai cấp nông dân với phát triển nông nghiệp và quá trình công nghiệp hóa, đô thị hóa nông thôn. Có chính sách hợp lý để chuyển lao động nông thôn sang các ngành phi nông nghiệp. Huy động và phát huy mọi nguồn lực từ nông dân, nông thôn cùng với các nguồn lực khác để thực hiện thành công mô hình nông nghiệp sinh thái, nông thôn hiện đại và nông dân văn minh.

Ba là, đối với đội ngũ trí thức và nguồn nhân lực chất lượng cao: đây là lực lượng tinh hoa của đất nước, phải quan tâm xây dựng đội ngũ này ngày càng lớn mạnh, có chất lượng cao, đưa những sáng kiến cụ thể thành thể chế, chính sách, pháp luật - động lực chính trị, pháp lý đáp ứng yêu cầu phát triển nhanh và bền vững đất nước trong tình hình mới. Có cơ chế phát huy dân chủ, tự do sáng tạo và đề cao đạo đức, trách nhiệm trong nghiên cứu khoa học. Ưu tiên đầu tư phát triển hạ tầng, môi trường làm việc, nghiên cứu, đổi mới sáng tạo của trí thức. Trọng dụng, đãi ngộ thỏa đáng đối với nhân tài, các nhà khoa học và công nghệ Việt Nam có trình độ chuyên môn cao ở trong nước và nước ngoài, nhất là các nhà khoa học đầu ngành có khả năng chủ trì các nhiệm vụ khoa học và công nghệ đặc biệt quan trọng. Thực sự tôn trọng, tạo điều kiện nâng cao hiệu quả hoạt động tư vấn, phản biện của chuyên gia, đội ngũ trí thức.

Bốn là, đối với đội ngũ doanh nhân Việt Nam: cần có chính sách phát triển đội ngũ doanh nhân cả về số lượng và chất lượng, có tinh thần cống hiến cho dân tộc, có chuẩn mực văn hóa, đạo đức tiến bộ và trình độ quản trị, kinh doanh giỏi, có đủ năng lực và bản lĩnh để đưa Việt Nam trở thành “kỳ tích Sông Hồng”, như người Hàn Quốc đã tạo ra “kỳ tích Sông Hàn”, người Ấn Độ đã tạo ra “kỳ tích Sông Hằng”. Cần xóa bỏ những điểm nghẽn, rào cản để tạo môi trường, điều kiện thuận lợi cho doanh nhân khởi nghiệp sáng tạo, kinh doanh lành mạnh, cống hiến tài năng; thực hiện trách nhiệm xã hội và tham gia phát triển xã hội. Tôn vinh, khen thưởng kịp thời, xứng đáng những doanh nhân có nhiều đóng góp cho sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc; gắn với triển khai phong trào thi đua “Doanh nghiệp Việt Nam hội nhập và phát triển”. Thị trường với sự cạnh tranh ngày càng quyết liệt đòi hỏi đội ngũ doanh nhân phải cùng với Đảng, Nhà nước tập trung trí tuệ và phát huy sức mạnh tổng hợp của đất nước để giành thắng lợi trong công cuộc xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa. 

Năm là, đối với thế hệ trẻ: bồi dưỡng thế hệ cách mạng cho đời sau là đòi hỏi cấp bách để phát huy nguồn lực trí tuệ và sức sáng tạo của thế hệ trẻ. Vì vậy, cần phải có những biện pháp đặc biệt để phát hiện và trọng dụng hiền tài, tất cả những tài năng và những sáng tạo phải được sử dụng và phát huy. Cần tăng cường giáo dục thế hệ trẻ về lý tưởng cách mạng, đạo đức, lối sống văn hóa, nâng cao lòng yêu nước, tự hào dân tộc, nuôi dưỡng ước mơ, hoài bão, khát vọng vươn lên; nêu cao tinh thần trách nhiệm đối với đất nước, với xã hội; xây dựng môi trường, điều kiện học tập, lao động, giải trí, rèn luyện để phát triển lành mạnh, toàn diện, hài hòa cả về trí tuệ, thể chất và giá trị thẩm mỹ. Chăm lo bồi dưỡng, giáo dục, phát triển toàn diện và bảo đảm quyền của trẻ em; dành những điều kiện tốt nhất, sự chăm lo chu đáo nhất cho trẻ em - chủ nhân tương lai của đất nước.

Sáu là, đối với các tầng lớp phụ nữ: chương trình, kế hoạch thực hiện Nghị quyết Đại hội ĐBTQ lần thứ XIII của các bộ, ngành, địa phương cần thể hiện rõ quan điểm tiếp tục phát huy truyền thống, tiềm năng, thế mạnh và tinh thần làm chủ, khát vọng vươn lên của các tầng lớp phụ nữ Việt Nam; đưa những phẩm chất tốt đẹp của phụ nữ Việt Nam cùng với truyền thống, bản sắc văn hóa dân tộc thành “quyền lực mềm” trong đời sống kinh tế, chính trị và xã hội. Nâng cao chất lượng nguồn nhân lực nữ, đáp ứng yêu cầu phát triển bền vững và hội nhập quốc tế. Tăng cường các chương trình phát triển, hỗ trợ cập nhật tri thức, kỹ năng cho phụ nữ có hoàn cảnh khó khăn, vùng đồng bào dân tộc thiểu số, miền núi. Hoàn thiện và thực hiện tốt luật pháp, chính sách liên quan đến phụ nữ, trẻ em và bình đẳng giới. Kiên quyết xử lý nghiêm theo pháp luật các tệ nạn xã hội, các hành vi bạo lực, mua bán, xâm hại phụ nữ, trẻ em.

Bảy là, chính sách phát triển kinh tế - xã hội vùng đồng bào dân tộc thiểu số cần được hoàn thiện, quan tâm hơn nữa, bảo đảm các dân tộc bình đẳng, đoàn kết, tôn trọng, giúp nhau cùng phát triển. Huy động, phân bổ, sử dụng và quản lý hiệu quả các nguồn lực để đầu tư phát triển, tạo chuyển biến căn bản về kinh tế, văn hóa, xã hội ở vùng có đông đồng bào dân tộc thiểu số. Chú trọng tính đặc thù của từng vùng dân tộc thiểu số trong hoạch định và tổ chức thực hiện chính sách dân tộc. Có cơ chế thúc đẩy tính tích cực, ý chí tự lực, tự cường của đồng bào các dân tộc thiểu số phát triển kinh tế - xã hội, thực hiện giảm nghèo đa chiều, bền vững. Chăm lo xây dựng đội ngũ cán bộ, người có uy tín tiêu biểu trong vùng dân tộc thiểu số. Nghiêm trị mọi âm mưu, hành động chia rẽ, phá hoại khối đại đoàn kết toàn dân tộc. 

Vận động, đoàn kết, tập hợp các tổ chức tôn giáo, chức sắc, tín đồ “sống tốt đời đẹp đạo”, đóng góp tích cực cho công cuộc xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Bảo đảm cho các tổ chức tôn giáo hoạt động theo quy định của pháp luật và hiến chương, điều lệ được Nhà nước công nhận. Phát huy những giá trị văn hóa, đạo đức tốt đẹp và các nguồn lực của các tôn giáo cho sự nghiệp phát triển đất nước. Hỗ trợ để người Việt Nam ở nước ngoài có địa vị pháp lý vững chắc, phát triển kinh tế và đời sống, hòa nhập xã hội nước sở tại. Nâng cao hiệu quả công tác bảo hộ công dân, quản lý lao động, du học sinh... Tạo điều kiện để đồng bào giữ gìn tiếng Việt, bản sắc văn hóa dân tộc, nâng cao lòng tự hào, tự tôn dân tộc, hướng về Tổ quốc, nhận thức và hành động phù hợp với lợi ích quốc gia - dân tộc, đóng góp tích cực cho sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.

Tăng cường vai trò nòng cốt chính trị, trách nhiệm của Mặt trận Tổ quốc, các tổ chức chính trị - xã hội trong xây dựng khối đại đoàn kết toàn dân tộc, tập hợp, vận động Nhân dân đẩy mạnh các phong trào thi đua yêu nước, thực hành dân chủ, tăng cường đồng thuận xã hội. Đổi mới tổ chức bộ máy, nội dung và phương thức hoạt động, nâng cao trách nhiệm của đội ngũ cán bộ Mặt trận Tổ quốc và các tổ chức chính trị - xã hội, hướng mạnh về cơ sở, địa bàn dân cư. Thực hiện tốt vai trò giám sát, phản biện xã hội, đại diện bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp, chính đáng của đoàn viên, hội viên, tích cực tham gia xây dựng Đảng, Nhà nước, tăng cường đối ngoại nhân dân. 

Hơn lúc nào hết, chúng ta cần khơi dậy mạnh mẽ tinh thần yêu nước, ý chí tự lực tự cường, sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc và khát vọng phát triển đất nước phồn vinh, hạnh phúc để xây dựng thành công chủ nghĩa xã hội và bảo vệ vững chắc Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa - sự nghiệp vĩ đại của Đảng, Nhà nước và Nhân dân ta, sự nghiệp của khối đại đoàn kết 54 dân tộc anh em trong cả nước./.

ĐỖ VĂN CHIẾN - Bí thư Trung ương Đảng, Chủ tịch Ủy ban Trung ương Mặt trận Tổ quốc Việt Nam

----------------------------------

Ghi chú:

(1),(2) Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đảng toàn tập, tập 59, Nxb CTQG, H.2000, tr.279-280; tr.292.
(3) Hồ Chí Minh, Toàn tập, tập 7, Nxb CTQG-ST, H.2011, tr.49.
(4) Nguyễn Phú Trọng, Một số vấn đề lý luận và thực tiễn về chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam, Báo Nhân dân điện tử, ngày 16/5/2021.
(5) Hồ Chí Minh, Toàn tập, tập 13, Nxb CTQG-ST, H.2011, tr.119.
(6) Hồ Chí Minh, Toàn tập, tập 4, Nxb CTQG-ST, H.2011, tr.258-259.
(7) Hồ Chí Minh, Toàn tập, tập 9, Nxb CTQG-ST, H.2011, tr.244.

 

 

banner
icon

Cổng dịch vụ công
Quốc Gia

Những thông tin thủ tục hành chính
khai báo online tại đây

Xem chi tiết icon
icon

Chính sách
pháp luật Việt Nam

Cập nhật thông tin, chính sách
pháp luật Việt Nam

Xem chi tiết icon
icon

Giới thiệu
Sản phẩm dịch vụ

Nơi giới thiệu những sản phẩm,
dịch vụ tốt nhất dành cho bạn đọc

Xem chi tiết icon

Cổng thông tin điện tử của các đơn vị thuộc Bộ

Top