Dự Hội nghị có các Thứ trưởng: Phan Tâm, Nguyễn Thanh Lâm, Nguyễn Huy Dũng cùng lãnh đạo cấp trưởng/ phó các đơn vị thuộc Bộ và đại diện lãnh đạo Công đoàn ngành TT&TT.
Phát biểu chỉ đạo hội nghị, Bộ trưởng Nguyễn Mạnh Hùng đã chỉ rõ những việc toàn ngành cần thực hiện và đem lại kết quả thiết thực trong năm 2023. Đó là:
Năm 2023 là năm tạo ra cách tiếp cận thiết thực, phải ra kết quả có lợi cho người dân, kết thúc công việc và tạo ra giá trị. Trong đó, 100% các dịch vụ công trực tuyến đủ điều kiện phải lên toàn trình, 50% số hồ sơ được xử lý trực tuyến toàn trình, viễn thông cũng phải xử lý triệt để SIM rác…
Năm 2023 cũng là năm đẩy cao chất lượng trong tất cả các hoạt động, không chỉ riêng luật pháp, trong đó có chất lượng và bền vững của hạ tầng số. Hạ tầng số là hạ tầng của nền kinh tế và xã hội số. Hạ tầng số mà trục trặc, không ổn định, chất lượng không tốt sẽ ảnh hưởng đến toàn bộ nền kinh tế. Bộ trưởng nhấn mạnh.
Năm 2023 là năm dữ liệu, cần làm rõ nội hàm, phân công nhiệm vụ cho các đơn vị trong Bộ, ngoài Bộ và các Bộ, ngành, địa phương khác. Bộ TT&TT sẽ là Bộ làm mẫu về vấn đề dữ liệu.
Năm 2023 là năm thực thi các chiến lược đã ký. Vì vậy, Bộ cần lập chương trình hành động cho mình và các Bộ, ngành, địa phương, liên quan, đưa quản lý, thực thi chiến lược vào thực tế; đo lường và công bố.
Năm 2023 là năm đầu tiên đánh giá và công bố chất lượng các cổng dịch vụ công, kể cả chất lượng cải cách các thủ tục hành chính trên Cổng TTĐT của các Bộ, ngành địa phương, chuyển từ có sang chất lượng.
Năm 2023 là năm Bộ đứng ra đảm bảo chất lượng toàn trình của liên thông dữ liệu, đảm bảo chất lượng dịch vụ công liên hệ thống.
Năm 2023 cũng là năm tạo ra thay đổi căn bản để đánh giá của ITU về Chính phủ điện tử và Chính phủ số của Việt Nam được thăng hạng. Để đạt được điều đó, cần sử dụng trí tuệ nhân tạo vào các hoạt động, tạo trợ lý ảo ở mức chuyên gia cho cán bộ công chức.
Năm 2023 là năm vận hành các hệ thống giám sát online, giám sát chính mình và các đối tượng quản lý. Theo Bộ trưởng, “muốn Bộ và đất nước bền vững thì phải làm được điều này”.
Để có thể lên môi trường số toàn trình, toàn diện để giám sát, cảnh báo và đo lường được, Người đứng đầu Ngành TT&TT chỉ đạo, năm 2023 là năm mẫu về xây dựng nền tảng làm việc số, 100% công việc của nhân viên phải được thực hiện trên môi trường số. Ngoài ra, năm 2023 phải là năm đưa các doanh nghiệp công nghệ số đi ra nước ngoài, chinh phục thế giới và làm thịnh vượng Việt Nam.
Đối với lĩnh vực báo chí, truyền thông, Bộ trưởng chỉ đạo, năm 2023 là năm đưa các cơ quan báo chí lên các nền tảng số, là năm biến các cơ quan báo chí, nhà xuất bản thành các nền tảng. Đồng thời cũng là năm lành mạnh hoá báo chí. Đây là giai đoạn phát triển báo chí sau giai đoạn sắp xếp. Những báo, tạp chí, trang thông tin điện tử sai phạm phải được nhắc nhở thường xuyên và xử phạt.
Năm 2023 là năm quản lý các nền tảng xuyên biên giới vào đúng quy định pháp luật Việt Nam. Các nền tảng này tiền thì nhiều nhưng trách nhiệm xã hội kém, cần nâng lên một mức nữa để quản lý các nền tảng xuyên biên giới theo đúng quy định pháp luật.
Năm 2023 là năm thực hiên nghiêm khẩu hiệu: “Làm gương, Kỷ cương, Trọng tâm, Bứt phá”. Bộ trưởng Nguyễn Mạnh Hùng yêu cầu.
Những hoạt động nổi bật trong công tác QLNN tháng 2/2023
Theo báo cáo của Văn phòng Bộ TT&TT, trong tháng 2/2023, về quản lý nhà nước, ngày 01/02/2023, Bộ TT&TT đã ban hành Thông tư số 01/2023/TT-BTTTT quy định danh mục và thời hạn định kỳ chuyển đổi vị trí công tác trong lĩnh vực TTTT tại chính quyền địa phương. Các lĩnh vực QLNN của Bộ có một số hoạt động nổi bật:
Về lĩnh vực bưu chính: Tháng 02/2023 thị trường ổn định, tăng trưởng nhẹ so với tháng 01/2023, ước đạt 176 triệu bưu gửi (tăng 17% so với cùng kỳ năm 2022 và tăng 8% so với tháng trước). Doanh thu dịch vụ bưu chính ước đạt 4.358 tỷ đồng (tăng 6% so với cùng kỳ năm 2022 và tăng 5% so với tháng trước.
Về lĩnh vực viễn thông: Thực hiện mục tiêu đến năm 2025 Việt Nam đạt Top 50 thế giới về CNTT-TT, các chỉ tiêu phát triển hiện đang đồng bộ với công tác chỉ đạo điều hành của Bộ. Cụ thể: Thuê bao băng rộng cố định ước đạt 21,78 triệu thuê bao, tăng 10% so với cùng kỳ năm 2022, tương đương 1,98 triệu thuê bao. Thuê bao băng rộng di động ước đạt 85,79 triệu, tăng 14% so với cùng kỳ năm 2022. Thuê bao điện thoại di động sử dụng SMP ước đạt 99,6 triệu thuê bao tăng 7,36% so với cùng kỳ năm 2022. Tỷ lệ sử dụng IPv6 trên Internet Việt Nam đạt 50%, cao gấp 1,6 lần trung bình toàn cầu và gấp 2,3 lần trung bình khối ASEAN. Việt Nam hiện đứng thứ 3 khu vực ASEAN và thứ 15 toàn cầu.
Về lĩnh vực chuyển đổi số và Chính phủ số:
Triển khai xây dựng mô hình Tổ Công nghệ số cộng đồng, tại 63/63 tỉnh, thành phố trong cả nước đã thành lập 69.345 Tổ CNSCĐ và 323.802 thành viên tham gia Tổ CNSCĐ cấp xã, thôn, phố; 48/63 tỉnh, thành phố hoàn thành 100% đến cấp xã. Nền tảng học trực tuyến mở đại trà (MOOCs) được khai trương từ đầu tháng 4/2022, đến 21/02/2023 đã có hơn 17,5 triệu lượt truy cập. Ngoài ra, tỷ lệ dịch vụ công trực tuyến mức độ toàn trình đủ điều kiện là 74,72%, tăng 4,36% so với tháng 01/2023; tỷ lệ hồ sơ trực tuyến toàn trình trên tổng số hồ sơ của các dịch vụ công trực tuyến toàn trình là 48,74%, tăng 2,62% so với tháng 01/2023.
Về lĩnh vực An toàn thông tin:
Tổng số chứng thư số công cộng đã cấp tính đến hết tháng 02/2023 là 5.869.305, tăng 23,18% so với cùng kỳ năm 2022; tổng số chứng thư số công cộng đang hoạt động tháng 02/2023 là 1.992.024, tăng 17,89% so với cùng kỳ năm 2022.
Về lĩnh vực Kinh tế số: Số lượng doanh nghiệp SME tiếp cận Chương trình là 732.163 doanh nghiệp, tăng trưởng 3,9% so với tháng 01/2023; số lượng doanh nghiệp SME sử dụng nền tảng của Chương trình là 90.088 doanh nghiệp, tăng trưởng 13,7% so với tháng 01/2023.
Về xã hội số, từ đầu năm đến ngày 31/01/2023, Việt Nam có khoảng hơn 310 triệu lượt tải mới trên thiết bị di động, tăng 1,64% so với cùng kỳ năm 2022 và tăng 19% so với tháng trước.
Về lĩnh vực Công nghiệp ICT: Ước tính đến hết tháng 02/2023, doanh thu công nghiệp CNTT ước đạt 239.992 tỷ đồng, tăng trưởng 10,43% so với cùng kỳ. Kim ngạch xuất khẩu phần cứng, điện tử ước đạt khoảng 8,2 tỷ USD, tăng 4% so với cùng kỳ. Số doanh nghiệp công nghệ số đăng ký hoạt động ước đạt 70.800, tăng 300 doanh nghiệp so với tháng 01/2023, đạt tỷ lệ 0,71 doanh nghiệp/1.000 dân…
Về lĩnh vực Báo chí, truyền thông, tỷ lệ thông tin tiêu cực về đất nước, con người Việt Nam trên không gian mạng giảm 17% so với cùng kỳ năm ngoái.
Về lĩnh vực Xuất bản: Số đầu xuất bản phẩm in trong tháng 02/2023 là 2.000 đầu xuất bản phẩm, tương đương so với cùng kỳ 2022; Doanh thu lĩnh vực in trong tháng 02 đạt 5.606 tỷ đồng, tăng 18% so với cùng kỳ năm ngoái; Doanh thu lĩnh vực phát hành xuất bản phẩm trong tháng 02 đạt 430 tỷ đồng, tăng 19% so với cùng kỳ năm ngoái.