Kết quả đạt được trong công tác cải cách thủ tục hành chính thời gian qua

Theo Thông báo số 169/TB-VPCP của Văn phòng Chính phủ ban hành ngày 05/5/2023, Ban chỉ đạo cải cách hành chính (CCHC) của Chính phủ đã kết luận một số nội dung về công tác cải cách thủ tục hành chính (TTHC) như sau:

Về kết quả đạt được, trong công tác chỉ đạo, điều hành, Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ, các đồng chí trong Ban Chỉ đạo các cấp luôn coi CCHC là đột phá chiến lược trong quá trình thực hiện chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và nhiệm vụ chính trị của mình hàng năm, thường xuyên chỉ đạo, đề ra nhiều nhiệm vụ, giải pháp quan trọng để tổ chức thực hiện, kiểm tra, giám sát, đánh giá về các kết quả đạt được trong CCHC nói chung, cải cách TTHC nói riêng.

202359-m03.jpg

Thủ tướng Phạm Minh Chính, Trưởng Ban Chỉ đạo cải cách hành chính của Chính phủ phát biểu chỉ đạo tại Phiên họp thứ tư ngày 19/4/2023

Nhận thức và hành động về CCHC, nhất là cải cách TTHC, chuyển đổi số có sự lan tỏa ở các cấp, các ngành, các địa phương, nhất là người đứng đầu. Nhìn chung các bộ, ngành, địa phương đã thực hiện tốt phương châm: Cải cách TTHC gắn với chuyển đổi số, lấy con người là trung tâm, cải cách đóng vai trò dẫn dắt, công nghệ hỗ trợ và thúc đẩy.

Cắt giảm, đơn giản hóa TTHC, quy định kinh doanh gắn với chuyển đổi số được chú trọng, đẩy mạnh hơn trong lãnh đạo, chỉ đạo, điều hành: Các bộ đã cắt giảm, đơn giản hóa gần 2,2 nghìn quy định kinh doanh tại 175 văn bản quy phạm pháp luật. Thủ tướng Chính phủ đã phê duyệt phương án cắt giảm, đơn giản hóa gần 1,1 nghìn quy định của 10 bộ, cơ quan. Các bộ đã công khai, cập nhật hơn 17,8 nghìn quy định trên Cổng tham vấn và tra cứu quy định kinh doanh.

Chất lượng dịch vụ công trực tuyến được cải thiện: Đã cung cấp hơn 4,4 nghìn dịch vụ công trực tuyến trên Cổng Dịch vụ công quốc gia. Cổng Thông tin một cửa quốc gia đã có 250 TTHC của 13 bộ, ngành kết nối với hơn 55 nghìn doanh nghiệp tham gia.

Đề án 06 (Quyết định số 06/QĐ-TTg ngày 06/01/2022) được chỉ đạo, triển khai quyết liệt: Trong quý I/2023, Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ đã ban hành 03 Nghị quyết, 01 Chỉ thị, 01 Công điện với nhiều nội dung quan trọng để thúc đẩy triển khai. Bộ Công an đã cấp hơn 79,5 triệu thẻ căn cước công dân gắn chip điện tử, kích hoạt trên 6 triệu tài khoản VNeID; hoàn thành tích hợp 21/25 dịch vụ công trực tuyến thiết yếu. Cơ sở dữ liệu quốc gia về dân cư đã kết nối, chia sẻ, làm sạch dữ liệu với 13 bộ, ngành, 63 địa phương, 03 doanh nghiệp viễn thông và Tập đoàn điện lực Việt Nam bảo đảm nguyên tắc, phương châm “đúng, đủ, sạch, sống”. Xử lý tích cực, quyết liệt tình trạng SIM rác: Tiếp nhận 95,6 triệu yêu cầu xác thực thông tin thuê bao, trong đó làm sạch, đồng bộ trên 78 triệu thông tin (81,6%).

Đơn giản hóa TTHC nội bộ gắn với chuyển đổi số, phân cấp trong giải quyết TTHC được quan tâm, chỉ đạo tích cực hơn: Thủ tướng Chính phủ đã phê duyệt phương án phân cấp 699/5.187 TTHC trên 100 lĩnh vực thuộc phạm vi quản lý của các bộ, ngành. Các bộ, cơ quan ngang bộ đã thực thi phương án phân cấp 81 TTHC tại 15 văn bản quy phạm pháp luật; đã triển khai Kế hoạch rà soát, đơn giản hóa TTHC nội bộ đối với 59 nhóm TTHC trọng tâm thuộc 2 lĩnh vực ưu tiên rà soát.

Việc gửi, nhận, xử lý hồ sơ trên môi trường điện tử và chuẩn hóa chế độ báo cáo được đẩy mạnh. Đã có hơn 21 triệu văn bản điện tử gửi, nhận trên Trục liên thông văn bản quốc gia, trung bình xử lý 550 nghìn văn bản/tháng góp phần thúc đẩy thao tác trên môi trường số (tiết kiệm khoảng 1,2 nghìn tỷ/năm).

Bên cạnh các kết quả đạt được, còn nhiều tồn tại, hạn chế, gồm: Tiến độ xử lý văn bản quy phạm pháp luật để tháo gỡ các rào cản về thể chế, cơ chế, chính sách tại một số nơi, một số bộ, địa phương chưa đáp ứng yêu cầu. TTHC trên một số lĩnh vực còn chồng chéo, chưa sát thực tế, chưa đúng yêu cầu của Chính phủ, còn nhiều rào cản, gây phiền hà cho người dân, doanh nghiệp (phòng cháy, chữa cháy, đầu tư công, tài chính, đất đai, giải phóng mặt bằng...). Việc cắt giảm, đơn giản hóa quy định kinh doanh còn chậm, thậm chí một số bộ chưa trình phương án cắt giảm, đơn giản hóa quy định kinh doanh; chưa huy động được sự tham gia tích cực của hiệp hội, doanh nghiệp, người dân, những đối tượng có liên quan trong quá trình CCHC cũng như cải cách TTHC. Việc ban hành quy trình nội bộ trong giải quyết TTHC và hoàn thiện hệ thống thông tin giải quyết TTHC tại một số bộ, ngành, địa phương còn chậm. Tỷ lệ sử dụng dịch vụ công trực tuyến còn thấp (chiếm 57,8%), tỷ lệ hồ sơ xử lý quá hạn còn cao (gần 34%); số hóa hồ sơ, kết quả TTHC còn chậm; thiếu hướng dẫn về lưu trữ điện tử phục vụ việc giải quyết TTHC trên môi trường điện tử. Công tác chỉ đạo, điều hành phần lớn vẫn theo phương thức thủ công, bằng giấy tờ (nhiều cơ sở dữ liệu quốc gia, chuyên ngành chưa được triển khai, hoặc triển khai còn chậm; nhiều bộ, ngành, địa phương chưa xây dựng được hệ thống thông tin phục vụ sự chỉ đạo, điều hành...). Các hệ thống công nghệ thông tin chưa được liên kết đồng bộ, hiệu quả, tổng thể, bao trùm và xuyên suốt; mức độ sẵn sàng ứng dụng công nghệ thông tin của các bộ, ngành, địa phương chưa đồng đều; việc kết nối, tích hợp, chia sẻ thông tin, dữ liệu còn nhiều hạn chế, vướng mắc, còn tình trạng “cát cứ thông tin”, “co cụm dữ liệu”. Xử lý hồ sơ công việc trên môi trường mạng tại một số bộ, ngành, địa phương còn chưa tốt, tỷ lệ thấp; công tác chuẩn hóa, điện tử hóa chế độ báo cáo chưa được thực hiện quyết liệt, đồng bộ. Nhân lực cho giải quyết TTHC có nơi, có lúc chưa đáp ứng được yêu cầu của người dân, doanh nghiệp, đặc biệt là thiếu nhân lực chất lượng cao. Công tác thông tin, truyền thông còn hạn chế. An ninh, an toàn thông tin nhiều nơi chưa được quan tâm đúng mức. Nhiều ách tắc, “điểm nghẽn” trong Đề án 06 vẫn chưa được các bộ, ngành, địa phương quan tâm tháo gỡ: Việc rà soát, sửa đổi, bổ sung, ban hành thể chế, chính sách còn chậm; hạ tầng số của nhiều bộ, ngành, địa phương còn chưa được quan tâm đúng mức, chưa được đầu tư thích đáng, chưa bảo đảm an toàn thông tin (mới có 05 bộ, 12 địa phương đáp ứng toàn bộ các yêu cầu theo hướng dẫn của Bộ Thông tin và Truyền thông); việc bố trí nguồn kinh phí và đào tạo nguồn nhân lực chưa kịp thời, chưa được quan tâm thực hiện thích đáng. Kết quả PAR Index và SIPAS 2022 của một số bộ, cơ quan, địa phương có xu hướng giảm. Các nội dung, tiêu chí đánh giá mới cho kết quả đánh giá chưa cao.

Nguyên nhân của tồn tại, hạn chế có cả chủ quan và khách quan, trong đó nguyên nhân chủ quan là chủ yếu như: (1) Công tác chỉ đạo, điều hành CCHC của lãnh đạo một số bộ, ngành, địa phương vẫn chưa được thực hiện một cách quyết liệt, thường xuyên, liên tục, chưa đúng tầm, chưa coi đây là nhiệm vụ quan trọng trong quá trình thực hiện nhiệm vụ chính trị của mình. Một số cơ quan, đơn vị chưa nêu cao tinh thần trách nhiệm, nhất là vai trò của người đứng đầu. Công tác phối hợp giữa các cơ quan, đơn vị còn thiếu chủ động, chưa chặt chẽ, kịp thời, hiệu quả chưa cao. (2) Việc công bố, công khai TTHC, hướng dẫn của các bộ, ngành chưa kịp thời. Việc thực hiện quy định không yêu cầu công dân xuất trình sổ hộ khẩu, sổ tạm trú giấy hoặc xác nhận thông tin về cư trú chưa nghiêm. (3) Trách nhiệm trong thực thi công vụ của một bộ phận cán bộ, công chức chưa cao, chưa có ý thức thay đổi thói quen sử dụng văn bản điện tử thay cho văn bản giấy; còn một số cán bộ, công chức sợ trách nhiệm, đùn đẩy trách nhiệm, gây phiền hà, sách nhiễu trong giải quyết công việc cho người dân, doanh nghiệp, thậm chí còn tham nhũng vặt. (4) Việc tổ chức triển khai, giao chỉ tiêu thực hiện dịch vụ công trực tuyến còn chưa hợp lý, chưa sát với thực tế gây khó khăn cho cán bộ thực thi công vụ cũng như người dân, doanh nghiệp. (5) Các hệ thống thông tin phục vụ giải quyết TTHC chưa có sự chuẩn hóa, thống nhất về dữ liệu. Hạ tầng số, trang thiết bị còn hạn chế, chưa được quan tâm đầu tư kịp thời, đúng mức trong khi đây là phương tiện, công cụ quan trọng để thực hiện CCHC nói chung, trong đó có cải cách TTHC phục vụ người dân, doanh nghiệp giúp giảm tiếp xúc giữa con người với con người và tăng cường tiếp xúc trực tuyến giúp giảm thời gian, chi phí, tránh phiền hà, tiêu cực, tham nhũng vặt.

Ngoài ra, còn có những nguyên nhân khách quan như: Đây là những vấn đề mới, khó, nhiều lực cản, phạm vi rộng, đối tượng tác động lớn đòi hỏi phải có thời gian thích ứng cũng như thay đổi thói quen, cách làm cho phù hợp...; Năm 2022, có thay đổi về nội dung, phương pháp đo lường sự hài lòng và chỉ số CCHC theo hướng nâng cao, bao trùm hơn, yêu cầu cao hơn nhằm tăng tính khách quan, toàn diện khi đánh giá./.