Khoa học công nghệ giúp ngành chăn nuôi phát triển

Nhờ ứng dụng khoa học công nghệ nên ngành chăn nuôi nước ta đạt tăng trưởng cao cả về giá trị sản xuất và giá trị kinh tế. Sự phát triển của ngành chăn nuôi có đóng góp không nhỏ từ những mô hình nuôi heo rừng, bê sữa, bò sữa bằng công nghệ đang được thực hiện ở Tây Nguyên

20211221-u37.jpg

  Heo rừng gốc Tây Nguyên là loại heo rừng có chất lượng thịt rất ngon và được ưa chuộng. Hiện nay ở Tây Nguyên có một số hộ dân tự phát nuôi heo rừng, nhưng giống lại nhập từ Thái Lan, Malaysia, không rõ nguồn gốc. Có một số là heo đực nguồn gốc Tây Nguyên được lai với heo nhà, nhưng do thiếu hiểu biết kỹ thuật nên tình hình lai tạo không có chủ đích, heo lai đồng huyết cao, sức sống kém, và cuối cùng là hiệu quả rất thấp.

Trước thực trạng đó, các nhà khoa học Viện Sinh học nhiệt đới đã triển khai đề tài  “Nghiên cứu ứng dụng thụ tinh nhân tạo phục vụ nhân giống heo rừng Tây Nguyên (Sus scrofa) và lai tạo heo rừng thương phẩm”, nhằm mục đích nghiên cứu nguồn gốc, đặc điểm sinh học sinh sản, nhân giống heo rừng Tây Nguyên thuần và lai tạo heo rừng thương phẩm; góp phần bảo tồn nguồn gen heo rừng Tây Nguyên phục vụ phát triển bền vững và bảo vệ rừng.

Sau bốn năm nghiên cứu, nhiều thời gian gắn bó với Tây Nguyên, nhóm nghiên cứu đã tạo được đàn heo rừng lai từ heo rừng thuần Tây Nguyên trên 110 con, có chất lượng thịt ngon, hằng năm đẻ thêm trên 850 con, đồng thời, xây dựng được ngân hàng tinh heo rừng đông lạnh 200 ống cryotype, với tỉ lệ sống trên 60%, 200 cọng tế bào heo rừng đông lạnh sống trên 60% và 50 cọng rạ phôi heo rừng đông lạnh từ trạng thái morular trở lên, sống trên 50%.

Về bê sữa, đề tài đã tạo được 44 bê cái có năng suất dự kiến trên 5.000kg/chu kỳ, được đánh giá có ưu thế hơn 10% so với đàn bò hiện có. Với bê lai hướng thịt, đề tài đã tạo được 310 con, dự kiến thể trọng đạt trên 280kg sau 24 tháng, ưu thế hơn 15% so với đàn bò hiện có.

Các nhà khoa học đã thu thập, thuần hóa trên 40 heo rừng Tây Nguyên thuần và bước đầu đã có được những đánh giá về đặc điểm sinh học của chúng. Trên cơ sở đó đưa ra cách thức nuôi dưỡng, chăm sóc hợp lý đối với heo rừng Tây Nguyên thuần.

PGS. TS. Hoàng Nghĩa Sơn, Viện trưởng Viện Sinh học nhiệt đới, chủ nhiệm đề tài cho biết, nhóm nghiên cứu đã xây dựng 5 quy trình : quy trình tuyển chọn, ổn định giống heo rừng thuần; quy trình chăn nuôi heo rừng lai thương phẩm; quy trình thu nhận, lưu giữ nguồn tinh heo rừng; quy trình tạo phôi heo rừng in vitro; quy trình sử dụng hóc môn sinh sản điều khiển động dục cho đàn bò sữa và bò lai hướng thịt để nâng cao năng suất sinh sản đàn bò và hai bộ số liệu liên quan đến đa hình các gian chỉ thị về khả năng kháng bệnh, khả năng tăng trọng và chất lượng thịt trên heo và bò là: Các báo cáo về đánh giá đa hình gene GHRH, Mc4R, C8 với tương quan đến tốc độ tăng trưởng, chất lượng thịt, tính kháng bệnh của heo rừng thuần và heo rừng lai và báo cáo về chỉ thị ADN của các giống bò lai có tương quan chất lượng thịt.

Ngoài ra là 3 mô hình trang trại nuôi heo rừng thuần, nuôi heo rừng lai thương phẩm kiêm hệ thống nhà hàng tiêu thụ sản phẩm tại Đắk Nông; 4 mô hình nuôi bò sữa nông hộ tại Đức Trọng, Lâm Đồng; 11 mô hình trang trại nuôi bò lai hướng thịt của các đồn biên phòng thuộc Bộ chỉ huy Bô đội Biên phòng và 5 mô hình nông hộ nuôi bò lai hướng thịt tại các huyện biên giới, tỉnh Đắk Nông. Thêm vào đó, đề tài đã xây dựng được 1 thương hiệu thịt heo rừng Tây Nguyên.

Đặc biệt, đây lần đầu tiên ở Việt Nam đã thả 20 heo rừng hoang dã có gắn chíp theo dõi về lại tự nhiên tại Vườn Quốc gia Bidoup Núi Bà và khu 268 ha do Bộ chỉ huy Bộ đội Biên phòng quản lý. Điều này mang lại những tác động to lớn trong việc phục hồi quần thể heo rừng, giúp duy trì tính đa dạng của rừng Tây Nguyên.

Đề tài xây dựng một công nghệ đạt được các mục mục tiêu chính: tuyển chọn, ổn định được giống heo rừng thuần và phát triển công nghệchăn nuôi heo rừng lai thương phẩm; xây dựng trang trại chăn nuôi và thương hiệu thịt heo rừng có nguồn gốc Tây Nguyên; Bảo vệ nguồn gen heo rừng cấp độ phòng thí nghiệm và trong tự nhiên. Cải tạo và nâng cao chất lượng đàn bò thịt và sữa tại một số vùng thuộc biên giới của tỉnh Đắk Nông phục vụ phát triển kinh tế gắn liền với an ninh quốc phòng thông qua việc hoàn thiện công nghệ thụ tinh nhân tạo và công nghệ phôi bò.

Đề tài đã xây dựng được một công nghệ về chăn nuôi bò thịt đạt hiệu quả kinh tế, góp phần ổn định đời sống người dân và bộ đội, góp phần đảm bảo an ninh biên giới và củng cố nền quốc phòng toàn dân. Các chuyên gia của Học viện Nông nghiệp Việt Nam và Hội Chăn nuôi Việt Nam đều đánh giá: Qua thời gian thực tế triển khai công nghệ này, sản phẩm được đánh giá chất lượng và có khả năng ứng dụng vào sản xuất, thương mại hóa sản phẩm. Từ đó giúp việc rút ngắn thời gian và chi phí cho hoạt động nuôi dưỡng động vật dài ngày giữa các lứa đẻ.

Ngoài ra, với các sản phẩm heo lai, bò lai có chất lượng, giá trị sản phẩm được tăng lên, làm gia tăng hiệu suất kinh tế của người chăn nuôi. Thành công của đề tài sẽ cung cấp quy trình chăn nuôi và con giống có ưu thế cho người dân, giúp nâng cao năng suất và giá trị sản phẩm, từ đó, tác động tích cực đến ngành chăn nuôi bò sữa, bò thịt, heo rừng lai.

Từ những kết quả bước đầu thu được, kỹ thuật thuần hóa, nhân giống heo rừng Tây Nguyên thuần và lai tạo heo rừng lai thương phẩm được ký kết chuyển giao công nghệ với trang trại chăn nuôi heo rừng, nhằm bảo tồn giống heo rừng và góp phần phát triển kinh tế vùng Tây Nguyên.