Việt Nam gia nhập WTO
+ Các dịch vụ chuyển phát
+ Các dịch vụ viễn thông
+ Dịch vụ máy tính và các dịch vụ liên quan.
- Cam kết gia nhập WTO – Các dịch vụ chuyển phát, dịch vụ viễn thông, dịch vụ máy tính và các dịch vụ liên quan
- Nội dung cam kết gia nhập WTO về: dịch vụ Bưu chính Viễn thông, hàng hóa và dịch vụ Công nghệ thông tin
Khái quát
Việc mở cửa thị trường dịch vụ viễn thông (VT), dịch vụ chuyển phát nhanh (CPN) và dịch vụ máy tính (IT) phù hợp với xu thế hội nhập chung của đất nước, bên cạnh mang lại nhiều cơ hội phát triển kinh tế xã hội nói chung và cho phát triển ngành nói riêng, cũng mang lại nhiều rủi ro và thách thức. Do tiềm lực vốn, công nghệ và chất lượng nguồn nhân lực còn hạn chế, nguy cơ các doanh nghiệp Việt Nam bị thua thiệt và bị mất các mảng thị trường tiềm năng là không nhỏ. Lĩnh vực dịch vụ viễn thông (VT) và chuyển phát nhanh (CPN) là một trong những lĩnh vực chịu nhiều sức ép mở cửa nhất trong đàm phán gia nhập WTO của Việt Nam. Vì vậy, các cam kết gia nhập WTO đã được Ban cán sự Đảng và lãnh đạo Bộ cân nhắc rất thận trọng. Các nhân nhượng chỉ được đưa ra vào phút chót của đàm phán và đặt trong gói cam kết tổng thể kết thúc đàm phán song phương. Tuy nhiên vì là mối ưu tiên cao của nhiều thành viên WTO, Việt nam cũng đã tiên liệu một số nhân nhượng phù hợp.
Bên cạnh đàm phán mở cửa thị trường dịch vụ VT, CPN Việt nam cũng đã phải đàm phán và cam kết thực hiện các luật lệ, quy tắc thương mại chung của WTO. Những cam kết này sẽ tác động đến tổ chức, cơ chế, môi trường hoạt động chung của Cơ quan quản lý Nhà nước và doanh nghiệp.
I. Cam kết mở cửa thị trường dịch vụ viễn thông
Thị trường dịch vụ Viễn thông đã phát triển khá năng động trong thời gian qua với sự tham gia của nhiều thành phần kinh tế. Nhiều doanh nghiệp viễn thông mới đã tham gia đầy đủ thị trường dịch vụ Viễn thông và đang nhanh chóng khẳng định chỗ đứng trên thị trường. Tốc độ tăng trưởng cao được duy trì liên tục qua nhiều năm. Mạng lưới được mở rộng nhanh chóng và mức độ hiện đại hoá theo kịp trình độ thế giới. Các doanh nghiệp cũng ngày càng quen hơn với văn hoá cạnh tranh và ngày càng chú trọng đổi mới tổ chức sản xuất, kinh doanh để nâng cao hiệu quả và chất lượng dịch vụ. Thực tế, giá cước dịch vụ liên tục giảm, các loại hình dịch vụ ngày càng đa dạng.
Các nhà đầu tư nước ngoài đã tham gia thị trường dịch vụ viễn thông với trên 2 tỷ USD dưới hình thức Hợp đồng hợp tác kinh doanh BCC từ rất sớm. Hiệp định thương mại Việt-Mỹ (TBA) có hiệu lực năm 2001 đã đưa ra lộ trình cho phép các nhà đầu tư Mỹ tham gia thị trường dịch vụ Viễn thông theo hình thức liên doanh từ năm 2001. Mức cam kết mở cửa thị trường dịch vụ Viễn thông trong Hiệp định thương mại Việt-Mỹ là tương đương mức cam kết gia nhập WTO của Trung Quốc. Hiệp định tiếp cận thị trường Việt Nam-EU có hiệu lực từ đầu năm 2005 cũng đã cho phép các nhà đầu tư EU tham gia thị trường dịch vụ viễn thông như các nhà đầu tư Mỹ. Tuy nhiên, cho đến nay chưa có hồ sơ xin thành lập liên doanh cung cấp dịch vụ viễn thông nào.
Môi trường pháp lý chuyên ngành về viễn thông và Internet đã tương đối hoàn chỉnh với Pháp lệnh BCVT và các Nghị định hướng dẫn. Các văn bản này về cơ bản đã phù hợp với những nguyên tắc và nghĩa vụ cơ bản chung của một nước thành viên WTO. Quy định về đầu tư nước ngoài trong lĩnh vực dịch vụ viễn thông hiện tuân theo các quy định chung của pháp luật về đầu tư nước ngoài của Việt Nam.
Trong đàm phán gia nhập WTO dịch vụ viễn thông đã chịu sức ép mở cửa rất lớn, đặc biệt từ phía các thành viên chủ chốt của WTO như Mỹ, EU, Nhật Bản, Hàn Quốc,… Dựa trên triển vọng kết quả vòng đàm phán Doha và mức cam kết “quá cởi mở” của các nước mới gia nhập WTO như Căm-pu-chia, Jordani, ả-rập Xê-út,… các nước đã yêu cầu Việt Nam cam kết lộ trình xoá bỏ mọi hạn chế về đầu tư nước ngoài trong lĩnh vực viễn thông. Mức cam kết của Việt Nam trong Hiệp định thương mại Việt-Mỹ được các nước coi chỉ là mức khởi điểm để đàm phán.
1. Hình thức đầu tư trực tiếp nước ngoài:
- Hiện trạng cam kết quốc tế: Hiệp định thương mại Việt-Mỹ (BTA VN-HK) hiện chỉ cho phép hợp đồng hợp tác kinh doanh (viết tắt BCC; nước ngoài góp vốn, chia lời, không tham gia điều hành) và liên doanh (JV) 49% vốn nước ngoài cung cấp dịch vụ viễn thông cơ bản; BCC và JV 50% vốn nước ngoài cung cấp dịch vụ viễn thông giá trị gia tăng. BTA VN-HK chưa cho phép nước ngoài nắm đa số vốn và thành lập công ty 100%. Những hạn chế này cho phép Việt Nam nắm đa số vốn và quyền kiểm soát, qua đó đảm bảo chủ quyền kinh tế, đảm bảo lợi ích an ninh và quốc phòng. Những hạn chế này cũng phù hợp với chủ trương mở cửa từng bước và thúc đẩy việc chuyển giao công nghệ cho phía Việt Nam.
- Yêu cầu của các đối tác: Mở cửa thị trường cao hơn, cho phép nước ngoài nắm đa số vốn và đưa ra lộ trình cho phép công ty 100% vốn nước ngoài. Nếu Việt Nam buộc phải chấp nhận, cho dù chỉ một phần những yêu sách này của Mỹ thì chủ quyền, lợi ích an ninh và kinh tế của Việt Nam sẽ bị ảnh hưởng đáng kể.
- Cam kết của Việt Nam:
+ Cung cấp dịch vụ viễn thông có hạ tầng mạng: ta không có nhân nhượng thêm so với mức cam kết trong BTA VN-HK. Trong lĩnh vực dịch vụ viễn thông cơ bản, bên nước ngoài chỉ được phép đầu tư dưới hình thức liên doanh với nhà khai thác Việt Nam đã được cấp phép, vốn góp của phía nước ngoài không được vượt quá 49% vốn pháp định của liên doanh.
+ Cung cấp dịch vụ viễn thông không có hạ tầng mạng: trong 03 năm đầu sau khi gia nhập WTO, bên nước ngoài chỉ được phép đầu tư dưới hình thức liên doanh với nhà khai thác Việt Nam đã được cấp phép, vốn góp tối đa là 51% vốn pháp định của liên doanh, 03 năm sau khi gia nhập bên nước ngoài mới được phép tự do lựa chọn đối tác khi thành lập liên doanh và được phép nâng mức vốn góp lên mức 65%.
Riêng đối với dịch vụ mạng riêng ảo (VPN) mà Mỹ có mối quan tâm đặc biệt, được thiết lập trên hạ tầng mạng do Việt Nam kiểm soát, Việt Nam có nhân nhượng hơn một chút: phía nước ngoài được phép tham gia vốn tối đa ở mức 70% vốn pháp định.
2. Chọn lựa đối tác liên doanh:
- Hiện trạng: Việt Nam hiện chỉ cho phép nước ngoài liên doanh với các doanh nghiệp viễn thông đã được cấp phép. Quy định như vậy nhằm tập trung cơ hội hợp tác cho các doanh nghiệp viễn thông hiện có, đảm bảo sự hợp tác bình đẳng giữa các bên trong liên doanh. Hạn chế này cũng cho phép hạn chế số lượng các JV có thể thành lập trong thời gian đầu để giảm bớt áp lực cạnh tranh, kiểm soát được thị trường.
- Yêu cầu của đối tác: Tự do lựa chọn đối tác liên doanh là một trong những yêu sách của một số đối tác đàm phán lớn. Nếu buộc phải chấp nhận điều này thì sự cạnh tranh sẽ đến không điều kiện và khốc liệt hơn do việc thành lập các liên doanh viễn thông hình thức này còn thực chất là nhanh hay chậm sẽ trở thành công ty 100% vốn nước ngoài. Thị trường sẽ bị tư nhân hoá.
- Cam kết gia nhập WTO:
+ Cung cấp dịch vụ viễn thông có hạ tầng mạng: ta không có nhân nhượng thêm so với mức cam kết trong BTA VN-HK. Bên nước ngoài vẫn phải liên doanh với nhà khai thác Việt Nam đã được cấp phép.
+ Cung cấp dịch vụ viễn thông cơ bản không có hạ tầng mạng: 03 năm sau khi gia nhập WTO bên nước ngoài mới được phép tự do lựa chọn đối tác khi thành lập liên doanh.
Nhân nhượng đối với dịch vụ mạng riêng ảo và dịch vụ viễn thông giá trị gia tăng ta cho phép nước ngoài tự do lựa chọn đối tác liên doanh ngay khi gia nhập.
3. Cung cấp dịch vụ qua biên giới:
- Hiện trạng: Việt Nam quy định nước ngoài phải có thoả thuận thương mại với nhà khai thác Việt Nam được cấp phép làm dịch vụ viễn thông quốc tế. Ngoài việc cho phép kiểm soát an ninh thông tin một cách khả thi, hạn chế này còn cho phép tạo ra thị trường thông tin vệ tinh cho các doanh nghiệp Việt Nam và nâng cao tính thương mại của dự án phóng vệ tinh Việt Nam VINASAT. Việc kiểm soát các cổng thông tin quốc tế và dịch vụ thuê kênh quốc tế cũng là những điều kiện cần thiết cho việc đảm bảo an ninh thông tin.
- Yêu cầu đàm phán: thị trường cáp quang biển quốc tế và dịch vụ băng rộng qua vệ tinh đang là mối quan tâm ưu tiên của một số đối tác đàm phán lớn và họ yêu cầu được cung cấp dịch vụ thông tin vệ tinh với các trạm thu nhỏ VSAT cho mọi đối tượng, được sở hữu dung lượng cáp quang 2 chiều đến trạm cập bờ của Việt Nam và bán dung lượng cáp quang biển cho mọi đối tượng.
- Cam kết gia nhập WTO: Việt Nam cam kết 03 năm sau khi gia nhập mở rộng loại đối tượng, chủ yếu là các công ty đa quốc gia hoạt động tại Việt Nam, có thể được cấp phép sử dụng trực tiếp dịch vụ vệ tinh của các nhà cung cấp dịch vụ nước ngoài. Ta cũng cam kết lộ trình cho phép bên nước ngoài, được kết nối dung lượng cáp quang biển (dung lượng 2 chiều) trên các tuyến cáp cong-xooc xiom mà Việt Nam là thành viên với các trạm cập bờ của Việt Nam và bán xỉ dung lượng truyền dẫn này cho các nhà cung cấp dịch vụ viễn thông quốc tế được cấp phép tại Việt Nam. Bốn năm sau khi gia nhập bên nước ngoài được phép bán dung lượng nêu trên cho các nhà cung cấp dịch vụ ảo VPN và dịch vụ kết nối Internet (IXP) quốc tế được cấp phép.
Tóm lại có một số dịch vụ mà các thành viên WTO đặc biệt quan tâm và Việt Nam buộc phải có một số nhân nhượng phù hợp là dịch vụ vệ tinh cố định (VSAT), dịch vụ mạng riêng ảo (VPN) và các dịch vụ gia tăng giá trị VAS được bán kèm, bao gồm cả dịch vụ truy nhập Internet, dịch vụ thuê kênh quốc tế, bán lại dịch vụ viễn thông nói chung, các dịch vụ Internet (đặc biệt kết nối IXP).
Như vậy, các doanh nghiệp viễn thông Việt Nam cần nhanh chóng xây dựng kế hoạch phát triển để chiếm lĩnh những mảng thị trường này trước, đảm bảo giữ vững thị trường và thế hợp tác chủ động sau này.
4. Cam kết về chuyển đổi hợp đồng hợp tác kinh doanh BCC
Nước ngoài có thể ký mới BCC hiện có hoặc chuyển đổi sang hình thức đầu tư khác phù hợp cam kết với điều kiện không kém thuận lợi hơn.
Cam kết này mang tính nguyên tắc và không thay thế các điều khoản của một BCC cụ thể. Vì vậy, nếu muốn thay đổi các bên của BCC phải đàm phán đề án hợp doanh mới và trình lên cơ quan có thẩm quyền phê duyệt.
5. Phạm vi dịch vụ
Ngoài các dịch vụ viễn thông có tính truyền thống, do sự hội tụ của các dịch vụ nghe nhìn Việt Nam cam kết thêm dịch vụ truyền dẫn tín hiệu video các chương trình truyền hình và phát thanh trong phần dịch vụ viễn thông cơ bản. Về bản chất ta cam kết coi dịch vụ truyền dẫn tín hiệu video từ các nhà sản xuất chương trình/nội dung đến các nhà phát hình/phát thanh quảng bá, giữa các nhà phát hình/phát thanh quảng bá với nhau là dịch vụ viễn thông. Dịch vụ này khác với dịch vụ phát quảng bá được định nghĩa như là một chuỗi truyền dẫn liên tục các tín hiệu chương trình phát thanh, truyền hình đến công chúng rộng rãi.
6. Nhận xét khái quát về cam kết mở cửa thị trường dịch vụ viễn thông
Về tổng thể, tương kế tựu kế Việt Nam đã có một số nhân nhượng phù hợp về mở cửa thị trường viễn thông theo yêu cầu của các thành viên WTO trong lĩnh vực cung cấp dịch vụ viễn thông không có hạ tầng mạng và trong lĩnh vực cung cấp dịch vụ qua biên giới (dịch vụ viễn thông quốc tế) để đổi lấy việc bảo lưu hạn chế “nước ngoài phải liên doanh với đối tác Việt Nam đã được cấp phép và bảo lưu hạn chế “mức vốn góp nước ngoài tối đa là 49% trong lĩnh vực cung cấp dịch vụ viễn thông cơ bản có hạ tầng mạng”. Những nhân nhượng về dịch vụ vệ tinh và dịch vụ cáp quang biển cung cấp qua biên giới chỉ cho phép phía nước ngoài được phép sở hữu toàn phần dung lượng thuộc hệ thống truyền dẫn không nằm trên lãnh thổ Việt Nam. Việt Nam vẫn bảo lưu được quyền kiểm soát Nhà nước đối với hạ tầng mạng viễn thông trên lãnh thổ Việt Nam và qua đó giữ được quyền kiểm soát nhất định đối với thị trường dịch vụ và an ninh thông tin. Việt Nam chưa cho phép thành lập công ty 100% vốn nước ngoài trong lĩnh vực viễn thông. Các công ty nước ngoài vẫn phải hợp tác với các công ty trong nước để cung cấp dịch vụ.
Xét chung cả khía cạnh kinh tế, chính trị, xã hội và an ninh quốc phòng thì cân bằng mặt lợi và mặt hại của việc chấp nhận một số nhân nhượng trong lĩnh vực dịch vụ viễn thông là một cân bằng động, cân bằng này hoàn toàn phụ thuộc vào các công cụ và năng lực quản lý của nhà nước, phụ thuộc vào tiềm lực, sự năng động và quyết tâm của các doanh nghiệp trong việc đổi mới tổ chức, sản xuất-kinh doanh để nâng cao sức cạnh tranh.
Khả năng kiểm soát thị trường viễn thông sau gia nhập cũng phụ thuộc rất nhiều vào vai trò của Tập đoàn chủ lực Bưu chính Viễn thông VNPT. Tập đoàn Bưu chính Viễn thông tới đây sẽ phải là công cụ hữu hiệu để Nhà nước điều tiết thị trường viễn thông có sự tham gia của nhiều thành phần kinh tế. Có các cơ chế chính sách thúc đẩy thích hợp cho các doanh nghiệp viễn thông mới có cơ sở hạ tầng vươn nhanh chiếm lĩnh và mở rộng thị trường để các nhân nhượng gia nhập WTO của ta chỉ là sự cảnh báo mà không tạo ra thách thức lớn cho các doanh nghiệp.
Khả năng kiểm soát thị trường viễn thông phụ thuộc rất nhiều vào trách nhiệm của lãnh đạo các doanh nghiệp viễn thông. Tham gia WTO là tham gia vào cuộc cạnh tranh tầm cỡ quốc tế. Nếu biết hợp tác phát triển, phát huy tốt tinh thần tự lực tự cường, các doanh nghiệp viễn thông vẫn có thể thu hút đầu tư nước ngoài để phát triển mà vẫn giữ được vai trò kiểm soát, qua đó Nhà nước vẫn duy trì được khả năng điều tiết.
Sự chỉ đạo thống nhất của Chính phủ, vai trò quản lý nhà nước chuyên ngành của Bộ BCVT, sự phối hợp tốt của các Bộ liên quan đến quản lý đầu tư nước ngoài trong vấn đề cấp phép cho các dự án đầu tư cũng sẽ góp phần giảm thiểu tác động tiêu cực của việc buộc phải tiếp tục cải thiện cam kết quốc tế sau này về dịch vụ viễn thông. Để đảm bảo đứng vững và phát triển được sau khi gia nhập WTO, một số chủ trương phát triển thị trường viễn thông giai đoạn trước mắt cũng rất cần được xem xét là:
- Hợp lý hoá/cơ cấu lại thị trường kinh doanh hạ tầng mạng đường dài trong nước và quốc tế: theo kinh nghiệm quốc tế, so với quy mô thị trường và tiềm lực tài chính trong nước, số lượng doanh nghiệp có cơ sở hạ tầng hiện tại đã là khá nhiều dễ dẫn tới việc phân tán nguồn lực, giảm sức cạnh tranh của doanh nghiệp.
- Lộ trình thích hợp cổ phần hóa các doanh nghiệp viễn thông quan trọng: nước ngoài rất quan tâm đến việc mua cổ phần các doanh nghiệp viễn thông và các tập đoàn viễn thông lớn nước ngoài trở thành các nhà đầu tư chiến lược. Do Việt Nam đã cam kết bãi bỏ hạn chế 30% cổ phần nước ngoài, trừ lĩnh vực ngân hàng, việc cổ phần hóa các doanh nghiệp viễn thông cần có tốc độ và giải pháp tương thích để vừa đạt hiệu quả cổ phần cao, vừa không hạn chế dòng đầu tư trực tiếp.
II. Cam kết mở cửa thị trường dịch vụ chuyển phát nhanh
Dịch vụ chuyển phát nhanh như một phân ngành dịch vụ độc lập trong phân loại dịch vụ của WTO, đương đẳng/ngang hàng với các phân ngành dịch vụ khác như dịch vụ bưu chính, viễn thông, vận tải, phân phối,... tuy mới xuất hiện tại Việt Nam nhưng đang phát triển rất nhanh. Thị trường đã có sự tham gia của nhiều thành phần kinh tế. Hầu hết các công ty hàng đầu thế giới như DHL, UPS, TNT, Fedex,... đã tham gia thị trường Việt Nam, có công ty đã được phép thành lập liên doanh với đa số vốn và quyền kiểm soát. Các công ty này tập trung khai thác thị trường chuyển phát nhanh quốc tế, phân đoạn thị trường chất lượng cao mà các doanh nghiệp Việt Nam không có khả năng tham gia. Ngoại trừ VNPT, các công ty 100% vốn Việt Nam đều là các công ty tư nhân nhỏ, hoạt động trên địa bàn hẹp trong nước, loại hình dịch vụ nghèo nàn. Việt Nam chưa cam kết mở cửa dịch vụ này trong BTA.
Cho đến nay, quản lý Nhà nước được thực hiện chủ yếu bằng các văn bản quy phạm pháp luật chung và các văn bản quản lý chuyên ngành như giao thông vận tải, hải quan,… Đầu mối quản lý Nhà nước về dịch vụ chuyển phát mới được giao cho Bộ BCVT từ 11/2004 xuất phát từ yêu cầu đàm phán gia nhập WTO. Hiện nay Bộ BCVT đang căn cứ vào cam kết gia nhập WTO để xúc tiến việc xây dựng Nghị định quản lý chuyên ngành dịch vụ chuyển phát.
Để kết thúc đàm phán gia nhập WTO với các nước, Việt Nam đã cam kết cho phép thành lập liên doanh 51% vốn đầu tư nước ngoài ngay khi gia nhập và cho phép thành lập công ty 100% vốn nước ngoài 05 năm sau khi gia nhập. Để tạo điều kiện cho Bưu chính Việt Nam phát triển ổn định sau khi tiến hành hạch toán độc lập mà vẫn thực hiện tốt nhiệm vụ cung cấp dịch vụ bưu chính công ích, Việt Nam đã đàm phán bảo lưu được mảng kinh doanh dịch vụ chuyển phát nhanh dành riêng, có ý nghĩa thương mại, cho Bưu chính Việt Nam. Đó là kinh doanh chuyển phát thông tin dưới dạng văn bản, kể cả thông tin dưới dạng không đóng gói dán kín, bao gồm cả thư quảng cáo trực tiếp. Hai tiêu chí xác định phạm vi dành riêng là:
- Khối lượng: dưới 2kg
- Giá cước: thấp hơn 10 lần cước thư thường trong nước cho mức khối lượng đầu tiên đối với chuyển phát trong nước và thấp hơn 9 USD đối với chuyển phát quốc tế.
Như vậy, cam kết mở cửa thị trường dịch vụ chuyển phát nhanh đã chính thức hoá việc mở cửa thị trường cho đầu tư nước ngoài và đưa ra lộ trình phù hợp tiến tới không hạn chế vốn nước ngoài. Các công ty hàng đầu nước ngoài, thực chất chỉ có một vài tập đoàn đa quốc gia, với truyền thống và năng lực kỹ thuật vượt trội sẽ tiếp tục chiếm ưu thế ở thị trường chuyển phát nhanh quốc tế và mảng thị trường chất lượng cao, khách hàng chính là các doanh nghiệp FDI và các doanh nghiệp xuất nhập khẩu. Các công ty Việt Nam vẫn có cơ hội phát triển ở thị trường chuyển phát trong nước và mảng thị trường chất lượng trung bình, khách hàng đại chúng.
Phù hợp với định hướng xây dựng môi trường kinh doanh cạnh tranh bình đẳng, Việt Nam cũng đã cam kết không phân biệt đối xử giữa các dịch vụ chuyển phát nhanh và các nhà cung cấp dịch vụ chuyển phát nhanh, kể cả Bưu chính Việt Nam, đối với các loại hình dịch vụ chuyển phát nhanh đã cho phép cạnh tranh. Theo cam kết này Bưu chính VN khi cung cấp dịch vụ chuyển phát nhanh đã mở cho cạnh tranh không được phép sử dụng những ưu đãi, đặc quyền vốn chỉ dành riêng cho cung cấp dịch vụ Bưu chính. Nói cách khác các công ty chuyển phát nhanh thành viên của Tập đoàn VNPT sẽ phải độc lập về mặt tổ chức sản xuất kinh doanh và hạch toán.
Cam kết gia nhập WTO về dịch vụ chuyển phát đòi hỏi Việt Nam tiếp tục hoàn chỉnh môi trường pháp lý và nâng cao năng lực thực thi pháp luật. Trong một thời gian ngắn sau khi gia nhập cần giải quyết một số vấn đề chuyên ngành cụ thể như sau:
- Phân tách rõ ràng dịch vụ bưu chính độc quyền của Bưu chính Việt Nam và dịch vụ chuyển phát đã mở cửa cho cạnh tranh trong nước và quốc tế và chính thức cam kết trong đàm phán gia nhập WTO;
- Phân biệt rõ ràng dịch vụ chuyển phát với các dịch vụ gần tương tự như dịch vụ giao nhận, dịch vụ vận tải đa phương thức,… để tránh tình trạng chồng chéo trong quản lý;
- Cho phép mọi thành phần kinh tế cung cấp dịch vụ chuyển phát thông tin dưới dạng văn bản kể cả đóng gói dán kín (trong đó có thư) trong nước và quốc tế;
- Xây dựng điều kiện đầu tư, tiêu chí, thủ tục cấp phép chuyên ngành đối với một số loại hình dịch vụ chuyển phát;
- Quy định phạm vi thị trường chuyển phát dành riêng cho Bưu chính Việt Nam.
Theo cam kết Nghị định quy định điều kiện đầu tư, tiêu chí, thủ tục cấp phép chuyên ngành đối với dịch vụ chuyển phát sẽ phải được ban hành chậm nhất trong vòng một vài tháng sau khi gia nhập.
B-hàng hóa và dịch vụ Công nghệ thông tin (CNTT)
Bên cạnh đàm phán mở cửa thị trường dịch vụ VT và CPN, Việt Nam cũng đã đàm phán mở cửa thị trường hàng hóa và dịch vụ CNTT. Đặc biệt, Việt Nam đã buộc phải tham gia Hiệp định cắt giảm thuế quan đối với sản phẩm CNTT (ITA), về bản chất Việt Nam cam kết lộ trình cắt giảm thuế nhập khẩu về 0%. Đây là những cam kết mà ta thấy rõ nhất tác động thương mại đối với các doanh nghiệp sản xuất trong nước.
I. Cam kết mở cửa thị trường hàng hoá CNTT
Việt Nam đã cam kết lộ trình cắt giảm thuế nhập khẩu về 0% đối với khoảng 300 mặt hàng thuộc danh mục Hiệp định sản phẩm công nghệ thông tin (CNTT) nhiều bên ITA. Mức thuế hiện hành phổ biến đối với sản phẩm CNTT dao động quanh 10%. Lộ trình giảm thuế về 0% đối với đa số các mặt hàng CNTT mang tính phổ cập như máy tính, các thiết bị ngoại vi, linh phụ kiện chính là 5 năm, đối với một số mặt hàng mà ta còn cần bảo hộ để phát triển công nghiệp nội địa như điện thoại, cáp điện thoại là 7 năm.
Thực tế phát triển những năm qua cho thấy công nghiệp sản xuất trang thiết bị CNTT trong nước đã không tận dụng hiệu quả hàng rào thuế quan bảo hộ. Giá và chất lượng sản phẩm CNTT chưa phù hợp lại là rào cản đối với việc nhanh chóng phổ cập ứng dụng CNTT nhằm nâng cao năng lực cạnh tranh của cả nền kinh tế. Vì vậy, lộ trình cắt giảm thuế sản phẩm CNTT đã bám sát nguyên tắc bảo hộ có thời hạn và có chọn lọc để hài hoà được cả hai nhóm lợi ích: sản xuất trong nước và nhanh chóng phổ cập ứng dụng CNTT qua việc phổ cập truy nhập và thiết bị đầu cuối. Mặt khác với chính sách tiếp tục thu hút mạnh mẽ đầu tư nước ngoài, đặc biệt của các tập đoàn CNTT lớn như Intel, Canon,…, vào lĩnh vực sản xuất và lắp ráp trang thiết bị CNTT thì việc cắt giảm thuế nhập khẩu cũng sẽ không ảnh hưởng lớn đến thu ngân sách.
II. Cam kết mở cửa thị trường dịch vụ máy tính và các dịch vụ liên quan
Dịch vụ máy tính và các dịch vụ liên quan có thể tạm hiểu một cách đơn giản là dịch vụ phần mềm và tin học hoá và nằm trong phạm vi dịch vụ CNTT.
Thị trường dịch vụ này đã có nhiều thành phần kinh tế tham gia từ rất sớm và đang phát triển rất nhanh. Cho đến nay quản lý Nhà nước được thực hiện chủ yếu bằng các văn bản quy phạm pháp luật có tính áp dụng chung. Quản lý Nhà nước về mặt chuyên ngành được chú trọng hơn kể từ khi thành lập Bộ BCVT có chức năng quản lý nhà nước về CNTT. Luật CNTT mà Quốc hội mới thông qua và các Nghị định hướng dẫn sắp ban hành sẽ là hệ thống văn bản pháp quy toàn diện đầu tiên về quản lý chuyên ngành CNTT.
Việt Nam đã có cam kết mở cửa thị trường khá mạnh từ năm 2001 với việc ký kết BTA VN-HK, Hiệp định này đã xoá bỏ hầu hết các hạn chế tiếp cận thị trường và cho phép công ty 100% vốn Mỹ hoạt động từ năm 2001. Trong đàm phán gia nhập WTO Việt Nam đã cải thiện thêm môi trường đầu tư trực tiếp:
- Chính thức bãi bỏ hạn chế còn bảo lưu trong BTA VN-HK (trên thực tế ta cũng chưa nội luật hoá và áp dụng hạn chế này), theo đó 02 năm sau khi Việt Nam gia nhập WTO các công ty 100% vốn nước ngoài được quyền cung cấp dịch vụ cho mọi đối tượng, kể cả các tổ chức cá nhân Việt Nam.
- 03 năm sau khi gia nhập Việt Nam cho phép các công ty nước ngoài được thành lập chi nhánh và cung cấp dịch vụ tại Việt Nam với điều kiện trưởng chi nhánh phải là người cư trú tại Việt Nam.
- Chính thức hoá việc cho phép nhà cung cấp dịch vụ theo hợp đồng được đưa người lao động nước ngoài (chuyên gia, kỹ sư,…) vào Việt Nam thực hiện hợp đồng.
Như vậy, các cam kết gia nhập WTO về dịch vụ máy tính và các dịch vụ liên quan không làm thay đổi lớn môi trường đầu tư và hoạt động cung cấp dịch vụ. Do thị trường đã khá mở, tự thân các cam kết gia nhập WTO này khó tạo ra thay đổi lớn trên thị trường hay tạo ra khó khăn thách thức mới đối với các doanh nghiệp trong nước. Chúng cũng không đòi hỏi những điều chỉnh lớn về văn bản quy phạm pháp luật có tính áp dụng chung cũng như văn bản quản lý chuyên ngành. Vấn đề đáng kể nhất là quy định về việc thành lập và hoạt động cung cấp dịch vụ của chi nhánh công ty nước ngoài sẽ được giải quyết chung cùng với một số lĩnh vực dịch vụ khác có cam kết cho phép chi nhánh.
Bên cạnh cam kết mở cửa thị trường hàng hóa và dịch vụ Việt Nam cũng đã cam kết thực thi Hiệp định về Sở hữu trí tuệ trong thương mại TRIPS. Về bản chất ta đã cam kết thực hiện Hiệp định này trong BTA VN-HK. Tuy nhiên việc thực thi Hiệp định trong thời gian qua còn chưa được chú trọng đúng mức. Ngoài vấn đề bản quyền phần mềm, các doanh nghiệp VT và CNTT cần đặc biệt lưu ý đến bản quyền truyền hình và tín hiệu vệ tinh mang chương trình đã được mã hoá, bản quyền tác phẩm phim ảnh, âm nhạc, văn học,...khi kinh doanh dịch vụ gia tăng giá trị trên Internet. Trên bàn đàm phán rất nhiều đối tác quan tâm đặc biệt đến vấn đề thực thi sở hữu trí tuệ tại Việt Nam (mức phạt quá thấp không đủ tác dụng răn đe,..) và tranh chấp trong lĩnh vực sở hữu trí tuệ chắc chắn sẽ là vấn đề nổi cộm sau khi gia nhập. Theo cam kết, Việt Nam cũng đã ban hành quy định nâng lên nhiều lần mức phạt kinh tế.
Một cam kết gia nhập WTO khác có tác động không nhỏ đến các doanh nghiệp CNTT là xoá bỏ trợ cấp. Theo quy định của WTO (Hiệp định TRIMs-Các biện pháp đầu tư có liên quan đến thương mại), Việt Nam đã buộc phải cam kết giảm và tiến tới cắt hẳn trợ cấp cho các doanh nghiệp nói chung và doanh nghiệp nhà nước nói riêng (trợ cấp trực tiếp từ ngân sách hoặc gián tiếp thông qua ưu đãi thuế, tín dụng, xoá nợ, khoanh nợ, giãn nợ, hỗ trợ về đất đai, hỗ trợ xuất khẩu và khuyến khích sử dụng hàng nội địa, các quy định phân biệt đối xử với các doanh nghiệp ngoài quốc doanh khác…). Các doanh nghiệp của ta hiện nay nói chung đều đang được hưởng một phần trợ cấp này, đặc biệt là các doanh nghiệp trong lĩnh vực CNTT do những năm gần đây đã có nhiều chính sách ưu đãi khuyến khích phát triển. Vì vậy các doanh nghiệp CNTT cũng cần ý thức rõ điều này để chủ động có kế hoạch trước khi không còn nhận được trợ cấp. Mặt khác, các doanh nghiệp cũng cần nhanh chóng có phương án, kế hoạch tận dụng các trợ cấp được phép như trợ cấp cho nghiên cứu phát triển, trợ cấp cho giáo dục đào tạo phát triển nguồn nhân lực.
Nhìn chung có thể nói sản xuất hàng hóa và cung cấp dịch vụ CNTT là những lĩnh vực được xã hội hóa khá sớm. Các doanh nghiệp đa số đều có quy mô vừa và nhỏ có được lợi thế về sự năng động và khả năng thích ứng cao. Với chiến lược phát triển phù hợp các doanh nghiệp CNTT Việt Nam có thể tự tin bước vào giai đoạn phát triển sau gia nhập WTO.
Kết luận
Trên đây là một số cam kết mở cửa thị trường dịch vụ BCVT và CNTT của Việt Nam trong đàm phán gia nhập WTO.
Chủ động hội nhập là quyết tâm chính trị của Đảng và Nhà nước và trong quá trình đàm phán ta cũng đã phải xem xét nới lỏng một số các rào cản tiếp cận thị trường để đạt được mục tiêu gia nhập WTO. Về chuẩn bị trong nước, chủ động hội nhập đòi hỏi Tập đoàn và các doanh nghiệp phải mạnh. Cơ quan quản lý phải xây dựng được khuôn khổ pháp lý đầy đủ cũng như năng lực thực thi tốt để thực hiện các mục tiêu phát triển chính trị, kinh tế-xã hội của mình. Việc đẩy mạnh quá trình chuẩn bị cho hội nhập và phát triển thành công sau gia nhập WTO đã được thực hiện thông qua chiến lược hội nhập và phát triển của Ngành giai đoạn 2000-2010, đặc biệt ngay từ đầu năm 2005 với Chỉ thị số 01/CT-BBCVT ngày 04/1/2005, Bộ trưởng Bộ BCVT đã chỉ thị cho các đơn vị trong toàn Ngành:
1. Tiếp tục quán triệt ở tất cả các cấp những cam kết hội nhập kinh tế quốc tế, những cơ hội và thách thức mà những cam kết này tạo ra trong lĩnh vực BCVT và CNTT.
2. Chủ động thực hiện các biện pháp nâng cao năng lực cạnh tranh, tiếp tục phát triển tốt khi có cạnh tranh nước ngoài và từng bước tiến ra thị trường khu vực và thế giới.
3. Chủ động đề xuất những cơ chế, chính sách nhằm phát huy tốt những lợi thế so sánh của Việt Nam.
4. Nghiên cứu xây dựng các phương án, cơ chế giải quyết kịp thời các tranh chấp thương mại có thể phát sinh.
5. Có kế hoạch phân công cụ thể, hình thành bộ phận chuyên trách về kinh tế quốc tế.
Như vậy, dù Việt Nam có nới lỏng các hạn chế thì nước ngoài cũng chỉ tận dụng được hết cơ hội mở cửa thị trường trên cơ sở phải hợp tác với các doanh nghiệp của Việt Nam mà thôi và có như vậy ngành BCVT và CNTT mới thực hiện thành công chủ trương hội nhập và phát triển bằng nội lực với phương châm biến cơ hội thành tăng trưởng, biến thách thức thành động lực phát triển.
Với tinh thần như vậy, các doanh nghiệp cần nghiên cứu phân tích sâu hơn những thuận lợi và khó khăn của mình trong trường hợp phải đối mặt sớm hơn với cạnh tranh quốc tế, từ đó xây dựng và triển khai quyết liệt kế hoạch đổi mới sản xuất kinh doanh để có thể nâng cao năng lực cạnh tranh, phát triển bền vững khi Việt Nam là thành viên WTO.
Về phía các cơ quan quản lý Nhà nước cũng cần tiếp tục hoàn chỉnh các quy định pháp lý cụ thể và chi tiết, công bằng và minh bạch cho phép thực hiện một cách linh hoạt các cam kết quốc tế, đảm bảo tốt nhất lợi ích quốc gia; xây dựng năng lực thực thi đảm bảo quản lý tốt môi trường BCVT và CNTT có sự tham gia của nhiều thành phần kinh tế vừa đảm bảo mục tiêu phát triển đất nước vừa giữ vững chủ quyền và an ninh thông tin quốc gia.