Tổng hợp trả lời kiến nghị của Sở Thông tin và Truyền thông

(Mic.gov.vn) - Thực hiện chỉ đạo của Lãnh đạo Bộ về việc trả lời kiến nghị của Sở Thông tin và Truyền thông các tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương tại Hội nghị sơ kết 6 tháng đầu năm 2014, Văn phòng Bộ đã tập hợp các kiến nghị, đề xuất của các Sở Thông tin và Truyền thông tại Hội nghị và qua Báo cáo công tác quản lý nhà nước của các Sở trong quý III gửi về Bộ. Các kiến nghị, đề xuất đã được các cơ quan, đơn vị chức năng thuộc Bộ nghiên cứu, và tổng hợp, trả lời.

I. Báo chí, phát thanh, truyền hình, thông tin điện tử, thông tin đối ngoại:

Câu hỏi 1 (Hà Nội):
Báo chí là lĩnh vực có hệ thống văn bản pháp luật tương đối đầy đủ, bao quát và điều chỉnh được hầu hết các hoạt động cũng như những vấn đề phát sinh trong thực tiễn. Tuy nhiên, từ khi Luật Báo chí và Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Báo chí, đã không còn phù hợp cần được điều chỉnh, sửa đổi cho phù hợp với tình hình thực tiễn như: như mô hình tổ chức, mạng lưới báo chí, mối quan hệ giữa các cơ quan chủ quản, cơ quan quản lý nhà nước tại địa phương.

Trả lời
Qua 15 năm thi hành Luật Báo chí, Bộ nhận thấy có nhiều quy định của Luật đã không còn phù hợp với thực tế phát triển của đời sống báo chí, như: quy định về cơ quan báo chí chỉ được thực hiện một loại hình báo chí (trong khi thực tế hiện nay nhiều cơ quan báo chí đã thực hiện ít nhất 2 loại hình báo chí: báo in, báo điện tử; có cơ quan thực hiện cả 4 loại hình); đối tượng xuất bản báo chí; liên kết trong hoạt động báo chí; kinh tế báo chí… Từ thực tế đó, năm 2009, Bộ đã đề xuất, báo cáo Chính phủ và được Chính phủ giao chủ trì xây dựng Luật Báo chí mới thay thế Luật Báo chí năm 1999. Tuy nhiên, vào thời điểm đó, Quốc hội quyết định tạm dừng việc trình Luật Báo chí. Đến nay, theo chương trình xây dựng pháp luật của Quốc hội, Luật Báo chí mới sẽ được trình vào năm 2015-2016. Để chuẩn bị cho việc xây dựng Luật Báo chí, Bộ dự kiến sẽ tổ chức Hội nghị toàn quốc tổng kết 15 năm thi hành Luật, trên cơ sở đó xây dựng dự thảo Luật Báo chí. Nhiều nội dung sẽ được đưa ra thảo luận trong lần sửa đổi này như vấn đề về cơ quan báo chí; người đứng đầu cơ quan báo chí; cơ quan quản lý nhà nước về báo chí; cơ quan chủ quản; việc cung cấp thông tin và nguồn tin...
Câu hỏi 2 (Hà Nội, Quảng Ngãi, Hải Phòng): Quy hoạch Báo chí toàn quốc là cơ sở để các địa phương định hướng đầu tư đáp ứng yêu cầu phát triển báo chí trong từng giai đoạn, đề nghị Chính phủ sớm ban hành Quy hoạch để các địa phương hoàn thiện Quy hoạch của địa phương mình phù hợp với quy định và đáp ứng yêu cầu thực tiễn.
Trả lời
Thực hiện chỉ đạo của Bộ Chính trị, Ban Bí thư và Chính phủ, Bộ được giao nhiệm vụ chủ trì, phối hợp với các ban, bộ, ngành, đơn vị có liên quan xây dựng Đề án Quy hoạch Báo chí Toàn quốc đến năm 2020. Quy hoạch đã được trình và báo cáo Ban Cán sự Đảng Chính phủ vào ngày 25/11/2013, trình Bộ Chính trị vào ngày 25/4/2014. Đến nay, Bộ đã hoàn thiện Quy hoạch theo kết luận của Bộ Chính trị và đang tiếp tục báo cáo Ban Cán sự Đảng Chính phủ, Bộ Chính trị trong năm 2014, sau đó, dự kiến sẽ xin ý kiến của Ban chấp hành Trung ương trước khi Chính phủ phê duyệt Quy hoạch. Sau khi Quy hoạch được phê duyệt, Bộ sẽ có trách nhiệm hướng dẫn, triển khai thực hiện Quy hoạch này.
 
II. Xuất bản, in và phát hành

Câu hỏi 1 (Hà Nội): Tại điểm b, khoản 2, phần III, Điều 1 của Quyết định số 115/QĐ-TTg của Thủ tướng Chính phủ về phê duyệt Quy hoạch phát triển xuất bản, in, phát hành xuất bản phẩm đến năm 2020, tầm nhìn đến năm 2030 quy định: “Không thành lập mới cơ sở in trong khu dân cư và thực hiện di dời các cơ sở in ra ngoài khu dân cư; có kế hoạch từng bước đưa các cơ sở in vào khu công nghiệp”. Đề nghị Bộ có hướng dẫn cụ thể về khái niệm “khu dân cư” và hướng dẫn cụ thể về việc cấp giấy phép hoạt động in, để công tác cấp phép, giải quyết thủ tục hành chính đối với các sở in được thuận lợi.

Trả lời
- Ngày 24/7/2012, Bộ Công an đã ban hành Thông tư số 23/2012/TT-BCA quy định về khu dân cư, xã, phường, thị trấn, cơ quan, doanh nghiệp, nhà trường đạt tiêu chuẩn “an toàn về an ninh, trật tự”. Tại Khoản 1 Điều 3 của Thông tư giải thích về khu dân cư như sau: Khu dân cư là nơi tập hợp người dân, hộ gia đình cư trú tập trung trong phạm vi một khu vực nhất định, bao gồm: Thôn, xóm, làng, bản, ấp, buôn, phum, sóc, khóm, tổ dân phố và đơn vị dân cư tương đương.
Vì vậy, khái niệm khu dân cư được thống nhất thực hiện như quy định tại Thông tư trên.
- Về việc cấp giấy phép hoạt động in: Cục Xuất bản, In và Phát hành đang gấp rút hoàn thành các Thông tư hướng dẫn thi hành Luật Xuất bản và các Nghị định số 195/2013/NĐ-CP quy định chi tiết một số điều và biện pháp thi hành Luật Xuất bản, Nghị định số 60/2014/NĐ-CP quy định về hoạt động in. Trong đó có hướng dẫn cụ thể về cấp giấy phép hoạt động in cũng như những quy định quản lý mới tại Nghị định 60/2014/NĐ-CP.

Câu hỏi 2 (Hòa Bình): Đề nghị Bộ sớm ban hành Thông tư hướng dẫn thực hiện Nghị định số 195/2013/NĐ-CP quy định chi tiết một số điều và biện pháp thi hành Luật Xuất bản, có hiệu lực từ 01/3/2014. Vì việc thực hiện Nghị định còn nhiều vướng mắc.

Trả lời
Hiện nay, Bộ đang xây dựng dự thảo Thông tư quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành một số điều của Luật Xuất bản, Nghị định số 195/2013/NĐ-CP ngày 21/11/2013 của Chính phủ quy định chi tiết một số điều và biện pháp thi hành Luật Xuất bản. Đến nay, dự thảo Thông tư đang trong quá trình tiếp thu, giải trình ý kiến thẩm định của đơn vị liên quan để hoàn thiện và trình Bộ trưởng ký ban hành trong quý IV năm 2014.

Câu hỏi 3 (Lào Cai): Đề nghị Bộ sớm xây dựng văn bản hướng dẫn các sở thực hiện việc quản lý hoạt động xuất nhập khẩu các ấn phẩm báo, tạp chí. Lý do: năm 2002 Chính phủ ban hành Nghị định số 88/2002/NĐ-CP về quản lý xuất khẩu, nhập khẩu văn hóa phẩm không nhằm mục đích kinh doanh. Tuy nhiên, năm 2012 Chính phủ ban hành Nghị định số 32/2012/NĐ-CP thay thế Nghị định số 88/2002/NĐ-CP, trong đó, tại Khoản 2, Điều 1 quy định “Nghị định này không điều chỉnh việc quản lý xuất khẩu, nhập khẩu xuất bản phẩm, báo, tạp chí không nhằm mục đích kinh doanh. Hoạt động xuất khẩu, nhập khẩu xuất bản phẩm, báo, tạp chí thực hiện theo quy định của pháp luật về báo chí và xuất bản”. Từ đó đến nay chưa có văn bản quy phạm pháp luật về báo chí và xuất bản hiện hành nào quy định, hướng dẫn cụ thể việc xuất khẩu, nhập khẩu ấn phẩm báo, tạp chí.

Trả lời
Việc nhập khẩu xuất bản phẩm không kinh doanh được thực hiện theo quy định tại Điều 41, Luật Xuất bản 2012. Để triển khai cụ thể quy định này, Cục Xuất bản, In và Phát hành đã hoàn thành xây dựng dự thảo Thông tư hướng dẫn thi hành một số điều của Luật Xuất bản, Nghị định 195/2013/NĐ-CP ngày 21/11/2013 của Chính phủ quy định chi tiết một số điều và biện pháp thi hành Luật Xuất bản và gửi Vụ Pháp chế thẩm định. Trong đó hướng dẫn cụ thể về việc thẩm định xuất bản phẩm nhập khẩu không kinh doanh cũng như hồ sơ đề nghị cấp phép. Sau khi Thông tư được ban hành sẽ tạo hành lang pháp lý quan trọng cho hoạt động quản lý xuất, nhập khẩu xuất bản phẩm, báo tạp chí không nhằm mục đích kinh doanh đi đúng hướng.

III. Viễn thông

Câu hỏi 1 (Hà Nội): Đề nghị Bộ xem xét, sửa đổi bổ sung một số nội dung của Thông tư số 04/2012/TT-BTTTT ngày 13/4/2012 như sau:
- Sửa đổi quy định tại điểm b, khoản 2, Điều 8 về diện tích mặt bằng dành riêng tối thiểu 20m2 đối với các điểm đăng ký thông tin thuê bao tại các phường thuộc quận, thị xã, thành phố thuộc tỉnh. Vì việc phát triển các điểm đăng ký thông tin thuê bao tại khu vực nội thành Hà Nội với diện tích tối thiểu 20m2 là rất khó khăn. Đề xuất mở rộng quy định về mặt bằng tối thiểu từ 7-10m2 cho phù hợp với đặc điểm khu vực nội thành Hà Nội.
- Sửa đổi quy định tại điểm c, khoản 2 Điều 8 về trang bị máy photocopy hoặc máy scan. Vì việc trang bị máy photocopy hoặc máy scan có chi phí cao, khó đáp ứng được theo quy định. Đề xuất các điểm đăng ký thông tin thuê bao được sử dụng các công cụ, hình thức khác nhau như: máy chụp ảnh,… để sao lưu các thông tin của khách hàng.
- Sửa đổi quy định tại điểm a, khoản 2, Điều 14 tại mỗi phường, xã phải triển khai ít nhất một điểm đăng ký thông tin thuê bao. Vì Trong thực tế gặp nhiều khó khăn khi tìm kiếm điểm bán nhận làm điểm đăng ký thông tin thuê bao.

Trả lời
Qua thực tế kiểm tra thuê bao trả trước trong thời gian vừa qua thì các sai phạm chủ yếu xuất phát từ các điểm đăng ký thông tin thuê bao (số CMND không đúng, bản sao CMND không chính xác, không xem được,...). Trong khi đó, đối với các điểm đăng ký thông tin thuê bao của doanh nghiệp viễn thông được trang bị thiết bị và diện tích mặt bằng đáp ứng theo yêu cầu của Thông tư 04/2012/TT-BTTTT thì kết quả kiểm tra về thông tin thuê bao là chính xác, rõ ràng, phục vụ tốt cho công tác quản lý, kiểm tra, đối chiếu thông tin thuê bao. Vì vậy, việc quy định diện tích mặt bằng, trang thiết bị tối thiểu trong Thông tư 04/2012/TT-BTTTT nhằm tăng cường độ chính xác, tin cậy của thông tin thuê bao, hạn chế được được việc lợi dụng dịch vụ di động trả trước vào các hoạt động gây mất an ninh và trật tự xã hội.

Đối với quy định “tại mỗi phường, xã trên cả nước các doanh nghiệp cung cấp dịch vụ di động chiếm thị phần khống chế phải triển khai ít nhất một điểm đăng ký thông tin thuê bao...” (điểm a Khoản 2 Điều 14 Thông tư 04/2012/BTTTT), quy định này nhằm giúp tạo điều kiện thuận lợi cho mọi đối tượng sử dụng dịch vụ, trong đó bao gồm cả các đối tượng sử dụng ở vùng sâu, vùng xa được đăng ký thông tin thuê bao trả trước ngay tại địa phương mình công tác, sinh sống. Để tạo điều kiện cho doanh nghiệp cung cấp dịch vụ, Thông tư 04 cũng cho phép, khuyến khích doanh nghiệp di động hợp tác với nhau và hợp tác với các bưu cục, bưu điện của Tổng Công ty Bưu điện Việt Nam và các doanh nghiệp bưu chính khác để dùng chung cơ sở hạ tầng. Bộ cũng đã tổ chức buổi ký biên bản hợp tác giữa doanh nghiệp di động với doanh nghiệp bưu chính để tận dụng tối đa hạ tầng dùng chung, giảm đầu tư, chi phí… nhằm giúp doanh nghiệp có điều kiện thuận lợi trong việc triển khai điểm đăng ký thuê bao của mình.

Do vậy, đề nghị Sở TTTT phối hợp giám sát, yêu cầu các doanh nghiệp viễn thông trên địa bàn thực hiện đúng theo quy định tại Thông tư 04/2012/TT-BTTTT về diện tích mặt bằng tối thiểu, điều kiện về trang thiết bị tại điểm đăng ký thông tin thuê bao (máy Photocopy/Scan) và số lượng điểm đăng ký thông tin thuê bao trả trước của mình tại mỗi quận/huyện/thị xã/thành phố.

Câu hỏi 2 (Gia Lai, Lào Cai, Sóc Trăng): Đề nghị Bộ sớm triển khai chương trình viễn thông công ích theo Quyết định số 1643/QĐ-TTg ngày 21/9/2011 của Thủ tướng Chính phủ.

Trả lời
Liên quan đến chương trình viễn thông công ích theo Quyết định số 1643/QĐ-TTg của Thủ tướng Chính phủ, ngày 07/9/2012 Văn phòng Chính phủ đã có Công văn số 1347/TTg-KTN chỉ đạo ngừng triển khai chương trình và giao cho Bộ phối hợp với các bộ, ngành liên quan nghiên cứu, sửa đổi một số nội dung cần thiết thay đổi của chương trình cung cấp dịch vụ viễn thông công ích giai đoạn 2011-2015 cho phù hợp với tình hình mới.
Thực hiện chỉ đạo của Thủ tướng Chính phủ, ngày 28/8/2014, Bộ đã trình Thủ tướng Chính phủ dự thảo Quyết định phê duyệt chương trình cung cấp dịch vụ viễn thông công ích đến năm 2020. Đồng thời, Bộ cũng đang khẩn trương xây dựng các văn bản hướng dẫn cần thiết để chương trình sớm được triển khai thực hiện khi có Quyết định phê duyệt của Thủ tướng Chính phủ.

Câu hỏi 3 (Tiền Giang): Đề nghị Bộ tham mưu sửa đổi, bổ sung Điểm d, Khoản 2, Điều 35 Nghị định số 72/2013/NĐ-CP ngày 15/7/2013 về “tổng diện tích các phòng máy của điểm cung cấp dịch vụ trò chơi điện tử công cộng” theo hướng căn cứ số máy (mốc 10 máy, 20 máy, 30 máy,…) quy ra tổng diện tích phòng máy theo đề nghị của nhiều chủ đại lý Internet.

Trả lời
Trước hết, phải khẳng định quy định diện tích phòng máy chỉ áp dụng đối với các điểm cung cấp dịch vụ trò chơi điện tử công cộng, do đó các điểm truy nhập Internet công cộng (bao gồm cả các đại lý Internet) mà không cung cấp dịch vụ trò chơi điện tử thì không phải đáp ứng yêu cầu về tổng diện tích phòng máy.
Thực tế quản lý trong những năm qua cho thấy từ khi trò chơi điện tử trên mạng được cung cấp tại Việt Nam thì hoạt động của các điểm truy nhập Internet công cộng và đặc biệt là đại lý Internet có cung cấp dịch vụ trò chơi điện tử trở nên phức tạp, đã có nhiều tác động không tốt đối với xã hội, gây tác động tiêu cực đến tinh thần và sức khỏe người chơi đặc biệt là trẻ em và thanh thiếu niên. Do vậy, tại Nghị định số 72/2013/NĐ-CP lần này đã bổ sung các quy định nhằm phân biệt rõ việc kinh doanh dịch vụ trò chơi điện tử với việc kinh doanh các dịch vụ Internet khác, trong đó có điều kiện về tổng diện tích phòng máy nêu trên. Mục đích chính của quy định này là nhằm thúc đẩy phát triển các điểm cung cấp dịch vụ trò chơi điện tử công cộng có quy mô tương đối lớn, đủ không gian, ánh sáng bảo đảm sức khỏe, quyền lợi của người chơi, đồng thời đáp ứng yêu cầu quản lý của nhà nước và thay thế cho các điểm nhỏ lẻ trước đây. Quy định chi tiết về tổng diện tích phòng máy cũng được áp dụng linh hoạt cho từng khu vực đô thị, nông thôn tùy thuộc vào vị trí cụ thể của địa điểm và phù hợp với khả năng kinh doanh thực tế của chủ điểm tại các khu vực này (thông thường tại khu vực nông thôn, vùng xa thì quy mô các điểm thường nhỏ hơn so với thành thị). Chủ điểm có thể đầu tư/thuê một phòng máy hoặc nhiều phòng máy tại cùng một địa điểm để đáp ứng đủ điều kiện về tổng diện tích các phòng máy theo quy định.
Trong thời gian qua, nhiều Sở TTTT đã gửi văn bản tới Bộ bày tỏ quan ngại về việc nhiều điểm truy nhập Internet công cộng có cung cấp dịch vụ trò chơi điện tử công cộng trên địa bàn không đáp ứng được yêu cầu điều kiện về tổng diện tích phòng máy quy định tại Nghị định số 72/2013/NĐ-CP và Thông tư số 23/2013/TT-BTTTT ngày 24/12/2013 quy định quản lý điểm cung cấp dịch vụ Internet công cộng và điểm cung cấp dịch vụ trò chơi điện tử công cộng. Tuy nhiên, quan điểm của Bộ Thông tin và Truyền thông cho rằng việc chuyển đổi để đáp ứng điều kiện hoạt động về diện tích phòng máy có thể khó khăn trong giai đoạn đầu, tuy nhiên sẽ được thực hiện nếu như vẫn tồn tại nhu cầu chơi game tại các điểm cung cấp trò chơi điện tử công cộng. Khi đó, sẽ hình thành thị trường gồm các điểm cung cấp dịch vụ trò chơi điện tử công cộng có quy mô lớn hơn do các tổ chức, cá nhân (có thể bao gồm cả những doanh nghiệp cung cấp dịch vụ Internet và doanh nghiệp cung cấp dịch vụ trò chơi điện tử,v.v…) đứng ra đầu tư, xây dựng; tuân thủ pháp luật tốt hơn các điểm nhỏ lẻ và hỗ trợ cho công tác quản lý nhà nước được hiệu quả. Do vậy, để bảo vệ quyền lợi, sức khỏe của người chơi (chủ yếu là trẻ em và thanh thiếu niên), giảm thiểu các tác động tiêu cực của trò chơi điện tử, đặc biệt là tại các điểm cung cấp dịch vụ trò chơi điện tử công cộng, trong thời gian này, Bộ đề nghị các Sở TTTT phối hợp với các cơ quan, đơn vị tại địa phương thực hiện triển khai các quy định quản lý điểm cung cấp dịch vụ trò chơi điện tử công cộng tại Nghị định số 72/2012/NĐ-CP và Thông tư số 23/2013/TT-BTTTT. Trong thời gian tới, sau quá trình đánh giá tổng kết việc triển khai thực tế các nội dung quản lý điểm cung cấp dịch vụ trò chơi điện tử công cộng, Bộ Thông tin và Truyền thông sẽ xem xét và đề xuất điều chỉnh Nghị định số 72/2012/NĐ-CP và Thông tư số 2013/TT-BTTTT cho phù hợp với thực tế.

Câu hỏi 4 (Hòa Bình): Căn cứ Quyết định số 172/QĐ-BXD ngày 06/02/2013 của Bộ Xây dựng về công bố thủ tục hành chính mới ban hành và bãi bỏ thủ tục hành chính thuộc phạm vi chức năng quản lý nhà nước của Bộ Xây dựng trong đó có nội dung bãi bỏ thủ tục hành chính Cấp giấy phép xây dựng trạm thu phát sóng thông tin di động (BTS) loại 1, 2. Hiện tại Sở Xây dựng không tiến hành cấp giấy phép xây dựng trạm BTS cho các doanh nghiệp viễn thông (Về vấn đề này Sở Xây dựng hiện đang xin ý kiến chỉ đạo từ Bộ Xây dựng). Vậy đề nghị Bộ có ý kiến với Bộ Xây dựng sớm trả lời vấn đề này nhằm tháo gỡ cho các doanh nghiệp viễn thông khi tiến hành xây dựng các trạm BTS.

Trả lời
Căn cứ quy định tại khoản 2 Điều 41 Nghị định 25/2011/NĐ-CP, hiện nay Bộ đang phối hợp với Bộ Xây dựng triển khai xây dựng Thông tư liên tịch quy định cụ thể và hướng dẫn việc cấp phép xây dựng các công trình hạ tầng kỹ thuật viễn thông thụ động, trong đó sẽ bao gồm các nội dung liên quan đến việc cấp phép xây dựng cột ăng ten thu phát sóng di động, ví dụ: miễn giấy phép xây dựng đối với hệ thống cột ăng ten cồng kềnh không nằm trong khu vực đô thị (là loại cột ăng ten đã được quy định tại Thông tư số 14/2013/TT-BTTTT) phù hợp với quy hoạch hạ tầng kỹ thuật viễn thông thụ động của doanh nghiệp đã được Ủy ban nhân dân tỉnh/thành phố thẩm định, phê duyệt và dự án đầu tư xây dựng đã được phê duyệt. Dự kiến Thông tư liên tịch sẽ được ban hành trong năm 2014. Trong thời gian này, Bộ sẽ phối hợp, làm việc với Bộ Xây dựng để có hướng dẫn đối với việc cấp phép xây dựng cột ăng ten thu phát sóng di động cho các doanh nghiệp viễn thông.

Câu hỏi 5 (Hòa Bình, Gia Lai, Hà Nam): Đề nghị Bộ phối hợp với Bộ Tài chính sớm ban hành Thông tư liên tịch quy định về phí, lệ phí cấp giấy chứng nhận đủ điều kiện hoạt động của điểm cung cấp dịch vụ trò chơi, điện tử công cộng.
Trả lời
Hiện nay Bộ đang tích cực phối hợp với Bộ Tài chính xây dựng Đề án phí, lệ phí trong lĩnh vực thông tin điện tử. Trong đó bao gồm quy định về phí, lệ phí cấp giấy chứng nhận đủ điều kiện hoạt động điểm cung cấp dịch vụ trò chơi điện tử công cộng, dự kiến Thông tư sẽ được Bộ Tài chính ban hành trong năm 2014.
 
Câu hỏi 6 (Hòa Bình): Theo kế hoạch đề án số hóa, truyền dẫn, phát sóng truyền hình mặt đất đến năm 2020 đã được Chính phủ phê duyệt, Hòa Bình được xếp vào địa phương thực hiện kế hoạch số hóa theo Nhóm IV. Tuy nhiên với điều kiện hiện tại các địa phương trong Nhóm IV nói chung và Hòa Bình nói riêng có thể thấy đã có rất nhiều hãng truyền hình tham gia vào thị trường như: Mytv, Nettv, truyền hình AVG, truyền hình VTC và truyền hình cáp. Tranh thủ sự chỉ đạo ủng hộ của Bộ Thông tin và Truyền thông, của Lãnh đạo Tỉnh ủy, HĐND và UBND tỉnh, sự chung tay vào cuộc của các doanh nghiệp trên địa bàn tỉnh. Sở TTTT Hòa Bình đề nghị Bộ nghiên cứu trình Chính phủ cho Hòa Bình nói riêng và các tỉnh trong Nhóm IV được thực hiện sớm hơn so với kế hoạch.

Trả lời
Hiện nay Đề án số hóa truyền hình mặt đất đang được triển khai đối với 05 thành phố trực thuộc Trung ương giai đoạn 1 của Đề án. Sau khi hoàn thành việc triển khai tại các địa phương này, Ban Chỉ đạo sẽ tổng kết, rút kinh nghiệm và xem xét thời điểm triển khai tiếp theo đối với các tỉnh, thành phố thuộc giai đoạn 2, 3, 4.
Câu hỏi 7 (Hà Nội): Đề nghị điều chỉnh thời điểm dừng phát sóng truyền hình tương tự mặt đất trên địa bàn thành phố Hà Nội. Căn cứ tình hình thực tế của Hà Nội trong việc triển khai Đề án số hóa truyền dẫn, phát sóng truyền hình mặt đất đến năm 2020, đề nghị Bộ Thông tin và Truyền thông xem xét, báo cáo Thủ tướng Chính phủ cho phép Hà Nội thống nhất thời điểm dừng phát sóng truyền hình tương tự mặt đất trên địa bàn vào ngày 31/12/2016.
Trả lời
Hiện nay Bộ đang nghiên cứu các phương án cụ thể cho việc ngừng phát sóng truyền hình tương tự mặt đất (ATV) đối với các tỉnh, thành phố thuộc nhóm 1 và nhóm 2. Bộ sẽ báo cáo xin ý kiến Ban chỉ đạo Đề án số hóa và đề xuất các thời điểm ngừng phát sóng ATV cho phù hợp với điều kiện thực tế trong thời gian tới.

IV. Công nghệ thông tin

Câu hỏi 1 (Hà Nội): Đề nghị Bộ sớm có văn bản hướng dẫn thực hiện Nghị định số 154/2013/NĐ-CP ngày 08/11/2013 của Chính phủ quy định về Khu CNTT tập trung. Sớm ban hành văn bản hướng dẫn xác định doanh nghiệp có hoạt động sản xuất phần mềm để làm cơ sở xác nhận cho các doanh nghiệp hưởng ưu đãi theo qui định.

Trả lời
1. Về văn bản hướng dẫn thực hiện Nghị định số 154/2013/NĐ-CP ngày 08/11/2013 của Chính phủ quy định về Khu CNTT tập trung:
Trong thời gian qua, Bộ đã tổ chức nhiều hội nghị phổ biến các nội dung của Nghị định 154/2013/NĐ-CP tại Hà Nội và TP. Hồ Chí Minh. Trên cơ sở các kiến nghị của các Khu công nghiệp, doanh nghiệp tại hội nghị và qua các văn bản, Bộ đang xây dựng văn bản hướng dẫn Nghị định 154/2013/NĐ-CP. Bên cạnh đó, Bộ cũng đang làm việc với các đơn vị liên quan của các Bộ Tài chính, Bộ Kế hoạch và Đầu tư, Bộ Tài nguyên và Môi trường để đôn đốc các đơn vị triển khai các nội dung thuộc trách nhiệm quản lý. Dự kiến trong tháng 11/2014, Bộ sẽ hoàn thiện các nội dung hướng dẫn triển khai Nghị định trên.
2. Đối với đề nghị sớm ban hành văn bản hướng dẫn xác định doanh nghiệp có hoạt động sản xuất phần mềm để làm cơ sở xác nhận cho các doanh nghiệp hưởng ưu đãi theo qui định:
Thời gian qua, Bộ đã làm việc với các đơn vị chức năng của Bộ Tài chính để đưa các nội dung ưu đãi sản xuất sản phẩm phần mềm vào Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật thuế thu nhập doanh nghiệp năm 2013 và Nghị định số 218/2013/NĐ-CP ngày 26/12/2013 quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành Luật thuế thu nhập doanh nghiệp. Để chi tiết hóa và hỗ trợ triển khai ưu đãi thuế cho lĩnh vực phần mềm trong Nghị định 218/2013/NĐ-CP, Bộ đang triển khai xây dựng Thông tư hướng dẫn xác nhận hoạt động sản xuất sản phẩm phần mềm. Theo đó, Thông tư sẽ được ban hành vào Quý IV/2014.

Câu hỏi 2 (Hà Nội, Lào Cai, Thừa Thiên Huế, Quảng Ngãi):
2.1. Đề nghị Bộ sớm trình Chính phủ ban hành Nghị định thay thế Nghị định 102/2009/NĐ-CP về quản lý đầu tư ứng dụng CNTT sử dụng nguồn vốn ngân sách nhà nước để tạo hành lang pháp lý cho việc triển khai các ứng dụng CNTT, khắc phục những vướng mắc, phát sinh hiện tại.
2.2. Đề nghị Bộ sớm ban hành Thông tư qui định việc xây dựng, triển khai và quản lý các hệ thống thông tin có qui mô triển khai từ Trung ương đến địa phương vì theo quy định tại Nghị định 64/2007/NĐ-CP việc triển khai phải được “phối hợp đồng bộ các nội dung về đầu tư, quy mô và thời gian triển khai giữa các dự án ứng dụng công nghệ thông tin” (Điều 9). Tuy nhiên, trong quá trình triển khai thực tế, tại các địa phương rất thiếu thông tin về CSDL và các hệ thống thông tin, phần mềm dùng chung do bộ, các cơ quan ngang bộ đang triển khai.
2.3. Đề nghị Bộ sớm trình Chính phủ ban hành Nghị định quy định việc trao đổi văn bản điện tử trên môi trường mạng trong hoạt động của cơ quan nhà nước để đẩy mạnh việc thực hiện Chỉ thị của Thủ tướng chính phủ về vấn đề này.

Trả lời
2.1. Về việc ban hành Nghị định thay thế Nghị định 102/2009/NĐ-CP về quản lý đầu tư ứng dụng CNTT sử dụng nguồn vốn ngân sách nhà nước Hiện tại, Bộ Thông tin và Truyền thông đang tiếp thu ý kiến của thành viên Chính phủ và sửa đổi, bổ sung Dự thảo Nghị định theo Luật Đầu tư công. Sau khi hoàn thành, Bộ sẽ trình Thủ tướng Chính phủ ký ban hành.
2.2. Hiện nay Bộ đã hoàn chỉnh dự thảo Thông tư và lấy ý kiến các Bộ, ngành, địa phương. Trên cơ sở đó đã tiếp thu, xem xét hoàn chỉnh. Dự thảo Thông tư đang được các đơn vị liên quan trong Bộ xem xét, rà soát chỉnh sửa để cho phù hợp, đảm bảo khả thi trước khi trình Bộ trưởng ký ban hành. Dự kiến dự thảo Thông tư sẽ được ban hành trong thời gian tới.
- Về việc xem xét ban hành danh mục phần mềm dùng chung:
Hiện nay, Bộ đang nghiên cứu, xây dựng dự thảo Thông tư quy định thẩm quyền, trình tự ban hành danh mục phần mềm dùng chung trong hoạt động của cơ quan nhà nước. Năm 2012, Bộ đã gửi xin ý kiến rộng rãi dự thảo văn bản tới các cơ quan chuyên trách về công nghệ thông tin tại các bộ, địa phương trên toàn quốc. Kết quả nghiên cứu và tiếp thu ý kiến góp ý của các đơn vị trong Bộ và 33 cơ quan chuyên trách về ứng dụng công nghệ thông tin tại các bộ, ngành địa phương cho thấy, hiện tại vẫn còn tồn tại những bất cập về tính khả thi khi đề xuất ban hành văn bản, bao gồm: Việc xây dựng, triển khai một phần mềm phụ thuộc nhiều vào đặc trưng của mỗi cơ quan áp dụng phần mềm đó. Trong khi đó, mỗi cơ quan nhà nước lại có những đặc thù riêng về chức năng hoạt động, phương thức tổ chức, quản lý, mức độ sẵn sàng về cơ sở hạ tầng đảm bảo ứng dụng công nghệ thông tin, sự sẵn sàng về kỹ năng và khả năng chấp nhận thay đổi của đội ngũ cán bộ sử dụng phần mềm và nguồn kinh phí được phân bổ cho hoạt động ứng dụng công nghệ thông tin.
Ngoài ra, trên thực tế, nhiều cơ quan nhà nước đã đầu tư xây dựng những phần mềm ứng dụng nội bộ theo hình thức “may đo” để đáp ứng yêu cầu hoạt động hiện tại của mình. Đây cũng chính là một khó khăn lớn để xây dựng một danh mục phần mềm dùng chung thống nhất, mà để đáp ứng được đòi hỏi phải có một lộ trình chuyển đổi và triển khai phù hợp. Khả năng triển khai rộng trên phạm vi toàn quốc một số phần mềm ứng dụng thương mại của các doanh nghiệp phần mềm trong nước là chưa được kiểm chứng và đánh giá một cách toàn diện (tính năng và chất lượng của phần mềm, khả năng hỗ trợ, bảo trì, bảo hành phần mềm sau triển khai trên phạm vi rộng, khả năng phát triển của doanh nghiệp).
Việc xây dựng danh mục phần mềm dùng chung dựa trên các phần mềm hệ thống thương mại do các nhà sản xuất nước ngoài phân phối trên thị trường Việt Nam cũng chưa khả thi vì những vướng mắc như: sự phụ thuộc vào nhà cung cấp ở nước ngoài, sự phức tạp về đàm phán, thương thảo với nhà cung cấp về bản quyền, giá thành sản phẩm đắt, chính sách bán hàng phức tạp và có khả năng dẫn tới tình trạng độc quyền về sản phẩm của một số nhà sản xuất nước ngoài trên thị trường Việt Nam.
Vì các lý do nêu trên, tại thời điểm hiện tại việc xây dựng văn bản quy định danh mục và cơ chế mua sắm phần mềm dùng chung trong hoạt động của các cơ quan nhà nước là chưa thực sự khả thi và chưa thể tháo gỡ được những bất cập hiện nay. Bộ sẽ tiếp tục nghiên cứu trong thời gian tới để tìm hướng giải quyết cho vấn đề này. Để tạm thời tháo gỡ những yêu cầu của các địa phương về việc triển khai thống nhất phần mềm dùng chung, các Sở có thể nghiên cứu, áp dụng một số văn bản đã được Chính phủ, Bộ TTTT, Bộ Tài chính ban hành trong thời gian qua như:
+ Thông tư số 09/2013/TT-BTTTT ngày 08/4/2013 ban hành Danh mục phần mềm và phần cứng, điện tử;
+ Thông tư số 42/2009/TT-BTTTT ngày 30/12/2009 Quy định chi tiết về ưu tiên đầu tư, mua sắm các sản phẩm công nghệ thông tin sản xuất trong nước bằng nguồn vốn ngân sách nhà nước hoặc vốn có nguồn gốc từ ngân sách nhà nước;
+ Quyết định 179/2007/QĐ-TTg ban hành quy chế tổ chức mua sắm tài sản hàng hóa từ ngân sách nhà nước theo phương thức tập trung;
+ Quyết định số 169/2006/QĐ-TTg, ngày 17/7/2006 của Thủ tướng Chính phủ quy định về việc đầu tư, mua sắm các sản phẩm công nghệ thông tin của các cơ quan, tổ chức sử dụng nguồn vốn ngân sách nhà nước và Quyết định số 223/2006/QĐ-TTg ngày 04/10/2006 của Thủ tướng Chính phủ về việc sửa đổi một số điều của Quyết định 169/2006/QĐ-TTg.
2.3. Hiện tại Bộ đã chỉ đạo các đơn vị chức năng xây dựng dự thảo Nghị định và đã hoàn thiện dự thảo 3. Tuy nhiên, đến thời điểm này, theo chương trình công tác của Chính phủ và của Bộ, thì Nghị định sẽ được Bộ trình Chính phủ vào đầu năm 2015.

V. Bưu chính:

Câu hỏi 1 (Hà Nội):
Theo quy định hiện hành của Luật Bưu chính, thời hạn khiếu nại là 06 tháng kể từ ngày kết thúc thời gian toàn trình của bưu gửi đối với khiếu nại về việc mất bưu gửi, chuyển phát bưu gửi chậm so với thời gian toàn trình đã công bố. Với quy định thời hạn khiếu nại dài như vậy sẽ rất khó khăn cho doanh nghiệp khi thực hiện vì thời gian khiếu nại dài ảnh hưởng đến doanh nghiệp trong việc theo dõi kiểm soát chất lượng dịch vụ. Nhiều khách hàng khi đã nhận hàng xong vẫn có thể tiến hành khiếu nại sau một thời gian dài. Đề nghị Bộ điều chỉnh thời hạn khiếu nại xuống là 1-2 tháng.

Trả lời
Trong quá trình xây dựng Luật Bưu chính, Bộ đã tổ chức nhiều hội thảo lấy ý kiến góp ý của các doanh nghiệp đang hoạt động trong lĩnh vực bưu chính, các Sở TTTT, các bộ, ngành có liên quan và các đại biểu Quốc hội về nội dung này và đã nhận được sự thống nhất cao. Ngoài ra, việc quy định thời hiệu khiếu nại 06 tháng như trên là phù hợp với các quy định của Bộ Luật Dân sự, Luật Thương mại, Luật Lưu trữ; phù hợp với đặc thù vận chuyển, phát của lĩnh vực bưu chính; đảm bảo quyền lợi của người sử dụng dịch vụ.
Bên cạnh quy định trên, Luật Bưu chính đã quy định thời hạn khiếu nại là 01 tháng đối với một số trường hợp cụ thể để đảm bảo quyền lợi của doanh nghiệp cung ứng dịch vụ bưu chính.

Câu hỏi 2 (Hà Nội): Theo quy định hiện hành, mức bồi thường thiệt hại đối với dịch vụ bưu chính trong nước tối thiểu bằng 4 lần cước vận chuyển hàng hóa, nhưng không có mức tối đa, do đó gây khó khăn cho các doanh nghiệp cung cấp dịch vụ trong việc đàm phán đền bù cho khách hàng, nhiều khách hàng đòi đền bù theo giá trị hàng gửi và giá trị thương mại dẫn đến không thể thương thảo đàm phán với khách hàng, do vậy doanh nghiệp khó có thể đáp ứng được. Đề nghị Bộ quy định bổ sung về mức bồi thường tối đa là 10 lần cước vận chuyển.

Trả lời
Nhằm đảm bảo quyền lợi của người sử dụng dịch vụ và tạo cơ chế thông thoáng để các doanh nghiệp tự do cạnh tranh bằng chất lượng dịch vụ thông qua mức cam kết bồi thường khi xảy ra thiệt hại, Nghị định số 47/2011/NĐ-CP đã quy định mức bồi thường tối thiểu là 4 lần cước. Trên cơ sở mức bồi thường thiệt hại tối thiểu này, các doanh nghiệp tùy vào khả năng của mình có thể cam kết mức bồi thường thiệt hại cụ thể của doanh nghiệp mình cao hơn hoặc bằng mức tối thiểu mà Nhà nước quy định. Do vậy, việc quy định bổ sung mức bồi thường thiệt hại tối đa vô hình chung sẽ hạn chế sự cạnh tranh lành mạnh giữa các doanh nghiệp trong việc đảm bảo quyền lợi nhằm thu hút khách hàng.

Câu hỏi 3 (Sóc Trăng, Thừa Thiên Huế): Cần nghiên cứu, xây dựng cơ chế, chính sách hỗ trợ dịch vụ bưu chính, điểm BĐVHX để doanh nghiệp đảm bảo duy trì hoạt động kinh doanh và phục vụ công ích.

Trả lời
1. Về xây dựng cơ chế, chính sách hỗ trợ dịch vụ bưu chính:
Hiện nay, Tổng Công ty Bưu điện Việt Nam (VNPost) đang cung cấp nhiều loại hình dịch vụ trên mạng bưu chính công cộng. Tuy nhiên, Nhà nước chỉ đặt hàng VNPost cung ứng các dịch vụ bưu chính công ích (BCCI) cho toàn xã hội đồng thời đã nghiên cứu, ban hành nhiều cơ chế, chính sách cho VNP cung ứng các dịch vụ BCCI này. Trong đó, Quyết định 65/2008/QĐ-TTg đã qui định các nội dung cơ bản về cơ chế quản lý, hỗ trợ cung ứng dịch vụ bưu chính công ích, gồm: danh mục dịch vụ BCCI, phương thức thực hiện, cơ chế tài chính. Với chủ trương nhà nước khoán trợ cấp cho bưu chính Việt Nam duy trì mạng bưu chính công cộng để cung ứng dịch vụ bưu chính công ích và phát hành các loại báo công ích, đến thời điểm này, tổng số tiền trợ cấp cho VNPost trong giai đoạn từ 2008-2013 là 4.777 tỷ đồng. Bên cạnh giải pháp hỗ trợ trực tiếp bằng tiền, Nhà nước còn thực hiện các giải pháp hỗ trợ đồng bộ khác, bao gồm: Thực hiện lộ trình điều chỉnh tăng dần cước dịch vụ BCCI; quy định dịch vụ dành riêng, giá cước dịch vụ dành riêng, đầu tư đủ vốn cho VNPost; thực hiện chính sách ưu đãi về đầu tư, thuế, sử dụng đất đối với hoạt động cung ứng dịch vụ BCCI. Trong thời gian tới, Bộ đang dự kiến điều chỉnh cước dịch vụ phát hành bưu chính công ích nhằm bù đắp các chi phí.
2. Về xây dựng cơ chế, chính sách hỗ trợ điểm BĐ-VHX:
Điểm BĐVHX là một bộ phận thuộc mạng bưu chính công cộng được Nhà nước đầu tư và giao cho VNPost quản lý nhằm mục đích ngày càng hoàn thiện và nâng cao hiệu quả hoạt động của hệ thống điểm BĐ-VHX, Bộ đã cùng với doanh nghiệp triển khai nhiều nội dung nhằm đổi mới mô hình hoạt động để phù hợp với tình hình hiện nay, cụ thể:
- Thành lập Tổ công tác liên ngành triển khai Đề án điểm BĐVHX.
- Thực hiện chủ trương đưa các Chương trình, dự án, đề án của Nhà nước, của các bộ, ngành liên quan về triển khai tại điểm BĐ-VHX, bao gồm:
+ Chương trình MTQG đưa thông tin về cơ sở tại các điểm BĐ-VHX: Theo đó, các điểm BĐ-VHX sẽ là nơi tiếp nhận một số ấn phẩm, sách báo tuyên truyền của dự án để phục vụ nhân dân địa phương. Nhân viên tại mỗi điểm BĐ-VHX tham gia chương trình được hỗ trợ thêm từ 120.000-160.000đ/tháng từ nguồn kinh phí Trung ương.
+ Dự án "Nâng cao năng lực sử dụng máy tính và truy cập Internet công cộng tại VN" của quỹ BMGF. Đến thời điểm này, dự án đã hoàn thành việc triển khai tại 12 tỉnh (bước 1) và 16 tỉnh bước 2 với tổng số 1.299 điểm, bao gồm 675 điểm BĐ-VHX và 624 thư viện các cấp.
Bộ đang tiếp tục chuẩn bị các công việc cần thiết để tiếp tục triển khai tại 12 tỉnh thuộc bước 3 với tổng số 601 điểm, bao gồm 325 điểm BĐVHX và 276 thư viện các cấp. Tham gia triển khai dự án, mỗi điểm BĐ-VHX được trang bị 01 máy in, 05 bộ máy tính và các thiết bị phụ trợ phục vụ việc tra cứu thông tin trên mạng cho người dân. Nhân viên điểm BĐVHX được quỹ BMGF cấp bổ sung thêm 200.000đ/tháng vào thu nhập hàng tháng.
+ Triển khai Chương trình phối hợp công tác liên ngành trong việc tăng cường tổ chức hoạt động phục vụ đọc sách báo tại các điểm BĐ-VHX giai đoạn 2013-2020: Qua hơn 1 năm triển khai thực hiện, chương trình đã được các bên liên quan đánh giá cao, góp phần nâng cao văn hóa đọc tại địa phương và thu hút được đông đảo người dân đến với điểm BĐ-VHX.
- Ban hành Thông tư số 17/2013/TT-BTTTT ngày 02/8/2013 quy định về hoạt động của điểm BĐ-VHX: Thông tư là sở cứ pháp lý quan trọng cho công tác quản lý hệ thống điểm BĐ-VHX trên toàn quốc. Đồng thời là sở cứ để doanh nghiệp được nhà nước giao quản lý hệ thống điểm BĐ-VHX phối hợp với các cơ quan liên quan trong quá trình phục vụ và kinh doanh tại các điểm BĐ-VHX.
- Xây dựng phương án triển khai Chương trình viễn thông công ích về điểm BĐVHX. Bao gồm các bước: Đưa điểm BĐ-VHX vào thành phần của tiểu dự án truyền thông của Chương trình VTCI; xác định tiêu chí lựa chọn điểm BĐ-VHX tham gia chương trình; xác định cụ thể nội dung hỗ trợ để tạo điều kiện cho doanh nghiệp trong quá trình tiếp nhận, triển khai chương trình; thống nhất phương thức quản lý để đảm bảo chức năng kiểm soát của Nhà nước về triển khai chương trình…
- Bộ đã chỉ đạo VNPost xây dựng và hoàn thiện Quy hoạch hệ thống điểm BĐ-VHX trên toàn quốc; đầu tư, nâng cấp cơ sở vật chất, công tác đào tạo bồi dưỡng cán bộ; xây dựng và điều chỉnh chế độ đãi ngộ thích hợp cho người lao động tại các điểm BĐ-VHX; phối hợp chặt chẽ với cơ quan quản lý nhà nước về viễn thông, doanh nghiệp viễn thông để việc lựa chọn các điểm BĐ-VHX làm điểm đăng ký thông tin thuê bao di động trả trước, điểm cung cấp dịch vụ viễn thông công cộng thuộc Chương trình viễn thông công ích được hiệu quả.

VI. Công tác tổ chức
Câu hỏi 1 (Quảng Ngãi, Điện Biên, Thừa Thiên Huế):
Đề nghị Bộ sớm ban hành chức năng, nhiệm vụ của Sở TTTT các tỉnh, thành phố, nhất là công tác thông tin cơ sở cần có hướng dẫn cụ thể để triển khai tại địa phương.

Trả lời
Hiện nay, Bộ đang phối hợp với Bộ Nội vụ xây dựng Thông tư liên tịch hướng dẫn chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn, cơ cấu tổ chức của Sở TTTT các tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương. Do tính phức tạp của Thông tư (có một số nội dung mới như: về thông tin cơ sở, thông tin đối ngoại và nhiệm vụ quản lý cổng thông tin điện tử) nên còn nhiều ý kiến chưa thống nhất. Dự thảo Thông tư liên tịch sẽ sớm được gửi lấy ý kiến góp ý của các địa phương để ban hành./.
 

ĐÁNH GIÁ BÀI VIẾT( 0)