I. Báo chí, Phát thanh Truyền hình, Thông tin điện tử, Thông tin đối ngoại, Chương trình MTQG:
Câu hỏi 1: Đề nghị Bộ TTTT có văn bản hướng dẫn về việc các Đài Truyền thanh - Truyền hình cấp huyện làm chương trình địa phương. (Lạng Sơn)
Trả lời:
1. Theo các quy định của pháp luật về báo chí, trong đó có Thông tư liên tịch số 17/2010/TTLT-BTTTT-BNV ngày 27/7/2010 hướng dẫn thực hiện chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và cơ cấu tổ chức của Đài phát thanh và truyền hình thuộc UBND cấp tỉnh, đài truyền thanh - truyền hình thuộc UBND cấp huyện, thì đài truyền thanh - truyền hình huyện, thị xã, thành phố thuộc tỉnh (sau đây gọi tắt là đài truyền thanh -truyền hình cấp huyện) có nhiệm vụ:
- Sản xuất và phát sóng các chương trình truyền thanh bằng tiếng Việt và bằng các tiếng dân tộc trên hệ thống loa truyền thanh, thiết bị phát sóng phát thanh được trang bị nhằm tuyên truyền đường lối, chính sách của Đảng, pháp luật của Nhà nước, tập trung vào sự chỉ đạo, điều hành của chính quyền địa phương, các hoạt động tại cơ sở, phổ biến kiến thức khoa học kỹ thuật, kinh tế, văn hóa, xã hội, công tác an ninh trật tự, gương người tốt, việc tốt, điển hình tiên tiến tới nhân dân theo quy định của pháp luật (khoản 1, Điều 5).
- Tiếp sóng và phát sóng các chương trình của Đài Tiếng nói Việt Nam, Đài Truyền hình Việt Nam, Đài Phát thanh và Truyền hình cấp tỉnh phục vụ nhu cầu tiếp nhận thông tin của nhân dân theo quy định của pháp luật (khoản 2, Điều 5).
- Phối hợp với Đài Phát thanh và Truyền hình cấp tỉnh sản xuất các chương trình phát thanh, truyền hình phát sóng trên Đài Phát thanh và Truyền hình cấp tỉnh” (khoản 4, Điều 5).
2. Tuy nhiên, thời gian qua, trên thực tế vẫn có một số đài truyền thanh - truyền hình cấp huyện tự sản xuất và phát sóng chương trình truyền hình (Đài Truyền thanh - Truyền hình TP. Đông Hà, Quảng Trị; Đài Truyền thanh - Truyền hình Cẩm Phả, Quảng Ninh). Việc các đài truyền thanh - truyền hình cấp huyện tự sản xuất, phát sóng các chương trình truyền hình là không thực hiện đúng các quy định của pháp luật về báo chí. Vì vậy, Cục quản lý Phát thanh truyền hình và Thông tin điện tử, Bộ TTTT đã có văn bản nhắc nhở Sở TTTT Quảng Trị; Sở TTTT Quảng Ninh yêu cầu các đài truyền thanh - truyền hình nói trên thực hiện đúng chức năng, nhiệm vụ của đài cấp huyện theo quy định của pháp luật.
3. Hiện nay, Bộ TTTT đang xây dựng Quy hoạch hệ thống báo chí (bao gồm cả phát thanh - truyền hình), trong đó đã đề xuất việc quy định rõ mô hình tổ chức hoạt động các đài truyền thanh - truyền hình cấp huyện theo hướng không phát triển đài truyền thanh - truyền hình cấp huyện thành các cơ quan báo chí để thuận lợi hơn trong việc triển khai thực hiện tốt chức năng, nhiệm vụ của đài.Cụ thể:
- Các đài truyền thanh - truyền hình cấp huyện chỉ thực hiện nhiệm vụ phát lại các chương trình của đài Trung ương, đài cấp tỉnh trong giai đoạn quá độ khi mà phạm vi phủ sóng của đài Trung ương và đài phát thanh - truyền hình cấp tỉnh chưa vươn tới một số địa bàn nhất định.
- Nhằm tập trung nguồn lực nâng cao chất lượng chương trình của các đài cấp tỉnh tránh việc đầu tư phân tán, lãng phí. Các đài truyền thanh - truyền hình cấp huyện chỉ làm nhiệm vụ sản xuất chương trình trên địa bàn và phát sóng trên đài phát thanh, truyền hình tỉnh.
Câu hỏi 2: Đề nghị ưu tiên, tăng mức hỗ trợ với các dự án thành phần của Chương trình MTQG đưa thông tin về cơ sở với các tỉnh để đảm bảo hoàn thành tốt mục tiêu Chương trình chung của cả nước. (Lai Châu)
Trả lời: Trong các năm đầu thực hiện Chương trình, kinh phí ngân sách Trung ương cấp cho Chương trình còn rất hạn chế; Bộ TTTT cũng đã ưu tiên cho các tỉnh miền núi khó khăn như Lai Châu. Tuy nhiên chưa đáp ứng được yêu cầu thực tế. Hiện nay Chương trình đã được Thủ tướng Chính phủ phê duyệt, trên cơ sở ngân sách trung ương năm 2014 cân đối cho Chương trình, Bộ TTTT sẽ xem xét kiến nghị của Sở TTTT tỉnh Lai Châu.
Câu hỏi 3: Đề nghị Bộ TTTT mở các lớp tập huấn về công tác Thông tin đối ngoại. (Lạng Sơn)
Trả lời: Trong 2 năm 2011, 2012 và nửa đầu năm 2013, Bộ TTTT đã phối hợp với 45 tỉnh, thành phố trong cả nước để tổ chức Hội nghị tập huấn về công tác thông tin đối ngoại cho cán bộ làm công tác thông tin đối ngoại, lãnh đạo các Sở, ban, ngành, người phát ngôn, báo đài tại địa phương.
Trong tháng 5 và tháng 6/2013, Bộ TTTT đã cùng với Ban Chỉ đạo công tác thông tin đối ngoại, Ban Tuyên giáo Trung ương, tổ chức thành công 3 hội nghị tập huấn toàn quốc về Chiến lược phát triển thông tin đối ngoại giai đoạn 2011-2020 và Chương trình hành động của Chính phủ về thông tin đối ngoại giai đoạn 2013-2020 cho 63 tỉnh, thành phố và 33 bộ, ngành tại 03 miền. Miền Nam tại thành phố Vũng Tàu ngày 20/5/2013, miền Trung tại thành phố Đà Nẵng ngày 04/6/2013 và miền Bắc tại thành phố Hà Nội ngày 20/6/2013.
Bộ TTTT đề nghị các tỉnh, thành phố chưa tổ chức Hội nghị tập huấn khẩn trương phối hợp với Bộ TTTT để tổ chức tập huấn về công tác thông tin đối ngoại trong năm 2014.
Câu hỏi 4: Hỗ trợ xây dựng Đài phát thanh - truyền hình Nghệ An ngang tầm với đài phát thanh - truyền hình khu vực, trong đó chú trọng xây dựng nâng cấp phần nội dung. Chăm lo phát triển mạng lưới thông tin cơ sở, ưu tiên đầu tư cho các xã chưa có đài truyền thanh cấp xã thông qua Chương trình MTQG đưa thông tin về cơ sở, vùng sâu, vùng xa, biên giới và hải đảo. (Nghệ An)
Trả lời:
1. Đối với đề xuất “Hỗ trợ xây dựng Đài phát thanh - truyền hình Nghệ An ngang tầm với đài phát thanh – truyền hình khu vực”, Bộ có ý kiến như sau:
- Việt Nam không có mô hình đài phát thanh – truyền hình khu vực. Hiện nay chỉ có Đài Truyền hình Việt Nam (VTV) là có 5 Trung tâm truyền hình khu vực, vừa sản xuất chương trình cho các kênh toàn quốc của VTV, vừa sản xuất, phát sóng kênh chương trình riêng của Trung tâm tại địa phương. Việc đặt các Trung tâm truyền hình khu vực có thể phù hợp trong giai đoạn trước, khi mà năng lực sản xuất chương trình của các đài địa phương còn hạn chế và Việt Nam chỉ sử dụng duy nhất phương thức truyền dẫn, phát sóng bằng công nghệ tương tự (analog).
- Trong định hướng dự thảo Quy hoạch báo chí toàn quốc mà Bộ TTTT đang xây dựng, sẽ sắp xếp lại các Trung tâm truyền hình khu vực của VTV để tránh chồng chéo về chức năng nhiệm vụ với các đài phát thanh – truyền hình tại địa phương. Theo đó, các Trung tâm này chỉ tập trung vào nhiệm vụ sản xuất chương trình để phục vụ việc phát sóng trên các kênh truyền hình quốc gia của VTV.
- Việc “hỗ trợ Đài phát thanh – truyền hình Nghệ An ngang tầm Đài phát thanh – truyền hình khu vực” là khó khả thi bởi:
+ Xét về cơ chế chính sách: Chính sách quản lý hiện nay và định hướng Quy hoạch phát triển hệ thống phát thanh - truyền hình cả nước đến năm 2020, tầm nhìn đến 2030 không xây dựng, phát triển các đài phát thanh – truyền hình khu vực. Vì vậy, nếu xây dựng Đài phát thanh – truyền hình Nghệ An ngang tầm đài khu vực thì sẽ khó xác định chức năng, nhiệm vụ của các đài phát thanh – truyền hình địa phương lân cận Nghệ An và sẽ phá vỡ định hướng quy hoạch hệ thống phát thanh – truyền hình toàn quốc.
+ Xét về góc độ kinh phí: Hiện nay, Bộ TTTT không được cấp kinh phí để hỗ trợ trực tiếp cho các đài phát thanh – truyền hình (trong đó có Đài phát thanh – truyền hình Nghệ An), đặc biệt là đầu tư xây dựng cơ bản, mua sắm trang thiết bị.
- Để hỗ trợ nâng cao chất lượng nội dung cho các đài phát thanh – truyền hình địa phương nói chung và Đài phát thanh – truyền hình Nghệ An nói riêng, trong định hướng xây dựng Quy hoạch hệ thống báo chí toàn quốc Bộ đã xây dựng chính sách phát triển các kênh chương trình phục vụ nhiệm vụ chính trị, thông tin tuyên truyền thiết yếu của quốc gia và địa phương. Theo đó, Nhà nước sẽ tập trung đầu tư cho các kênh chương trình này bằng chính sách ưu tiên hỗ trợ ngân sách nhà nước, thuế, phí truyền dẫn... Cụ thể:
+ Bộ sẽ tăng cường tổ chức bồi dưỡng, đào tạo chuyên môn nghiệp vụ, nâng cao chất lượng đội ngũ phóng viên, biên tập viên, trong đó đặc biệt chú trọng đến việc nâng cao bản lĩnh chính trị.
+ Tiếp tục chỉ đạo định hướng nội dung thông tin nhằm nâng cao chất lượng các chương trình phát thanh, truyền hình của địa phương.
+ Yêu cầu các đơn vị cung cấp dịch vụ truyền hình trả tiền truyền dẫn kênh truyền hình thiết yếu của Nghệ An khi cung cấp dịch vụ trên địa bàn Nghệ An theo quy định của pháp luật.
- Bên cạnh đó, Bộ TTTT cũng đề nghị UBND tỉnh Nghệ An, với trách nhiệm là cơ quan chủ quản, đề xuất tăng đầu tư ngân sách nhà nước cho kênh truyền hình Nghệ An, là kênh chương trình truyền hình trong nước phục vụ nhiệm vụ chính trị, thông tin tuyên truyền thiết yếu của địa phương.
2. Đối với đề xuất: “Chăm lo phát triển mạng lưới thông tin cơ sở, ưu tiên đầu tư cho các xã chưa có đài truyền thanh cấp xã thông qua Chương trình MTQG đưa thông tin về cơ sở, vùng sâu, vùng xa, biên giới và hải đảo”.
Chương trình MTQG đưa thông tin về cơ sở trong vài năm trở về đây đã góp phần tiếp tục mở rộng diện phủ sóng phát thanh - truyền hình Nghệ An tại các xã nghèo, xã có điều kiện kinh tế đặc biệt khó khăn, đáp ứng tốt hơn nhu cầu thông tin, giải trí của nhân dân Nghệ An.
Năm 2011, Nghệ An là một trong những địa phương đầu tiên được đưa vào thực hiện Chương trình MTQG đưa thông tin về cơ sở miền núi, vùng sâu, vùng xa, biên giới, hải đảo mà Bộ TTTT triển khai, với tổng kinh phí được hỗ trợ là khoảng 7 tỷ đồng (để thực hiện dự án “tăng cường cơ sở vật chất cho hệ thống thông tin và truyền thông cơ sở miền núi, vùng sâu, vùng xa, biên giới, hải đảo”).
Đến năm 2013, do hạn chế về khả năng bố trí kinh phí từ ngân sách trung ương thực hiện Dự án 2 - Dự án “tăng cường cơ sở vật chất cho hệ thống thông tin và truyền thông cơ sở miền núi, vùng sâu, vùng xa, biên giới, hải đảo”, Bộ TTTT đã có văn bản số 187/BTTTT-KHTC ngày 15/01/2013 hướng dẫn thực hiện Chương trình MTQG đưa thông tin về cơ sở miền núi, vùng sâu, vùng xa, biên giới, hải đảo năm 2013. Theo đó, Bộ TTTT yêu cầu các địa phương được giao vốn thực hiện Dự án 2 của Chương trình năm 2013 chỉ tập trung thực hiện 01 mục tiêu là đầu tư cho các xã chưa có đài truyền thanh xã (trong Chương trình được ghi là thiết lập các đài truyền thanh xã đối với các xã chưa có đài truyền thanh) nhằm xóa trắng các xã chưa có đài truyền thanh xã, đảm bảo thông tin cơ sở tối thiểu phục vụ cho người dân ở khắp mọi miền của đất nước không phân biệt đối xử. Theo hướng dẫn tại văn bản số 187/BTTTT-KHTC nêu trên, Nghệ An được thiết lập mới 11 đài truyền thanh xã.
Câu hỏi 5: Hỗ trợ kinh phí đầu tư Trạm phát lại, Đài Truyền thanh cấp xã và cụm Thông tin đối ngoại tại khu vực Cửa khẩu Quốc tế Chalo thuộc Chương trình MTQG đưa thông tin về cơ sở. (Quảng Bình)
Trả lời: Bộ TTTT đã thống nhất chủ trương đầu tư Cụm Thông tin đối ngoại tại cửa khẩu Chalo. Hiện nay, Bộ đang thực hiện các thủ tục để đầu tư trạm phát lại, Đài Truyền thanh xã. Bộ TTTT sẽ xem xét kiến nghị của Sở TTTT Quảng Bình khi xây dựng kế hoạch thực hiện dự án 2 thuộc Chương trình MTQG đưa thông tin về cơ sở năm 2014.
Câu hỏi 6: Về việc hỗ trợ phát sóng các chương trình phát thanh, truyền hình do các cơ quan Trung ương cung cấp để phục vụ đồng bào khu vực miền núi, vùng sâu, vùng xa, biên giới và hải đảo, đề nghị Bộ TTTT cần có hướng dẫn và cung cấp các chương trình phát sóng phát thanh, truyền hình sớm cho các địa phương để địa phương chủ động, triển khai thực hiện đúng tiến độ của Chương trình. (Quảng Trị)
Trả lời: Để phục vụ công tác thông tin, tuyên truyền, thời gian qua, Bộ TTTT đã triển khai nhiều dự án truyền thông như Đề án đào tạo nghề cho lao động nông thôn, Đề án tuyên truyền về biển, hải đảo Việt Nam, Đề án Nghề công tác xã hội, Đề án Vệ sinh an toàn lao động, Chương trình MTQG đưa thông tin về cơ sở miền núi, vùng sâu, vùng xa, biên giới, hải đảo... . Một trong những nhiệm vụ của các đề án, dự án nêu trên là đặt hàng một số đơn vị chức năng thực hiện sản xuất phim tài liệu, video clip tuyên truyền. Ngay sau khi các sản phẩm này hoàn thành, được nghiệm thu, sản phẩm sẽ được sao chép thành đĩa tuyên truyền chuyển cho các đài phát thanh – truyền hình địa phương để chủ động bố trí khung giờ phát sóng, phục vụ nhân dân và đồng bào khu vực miền núi, vùng sâu, vùng xa, biên giới và hải đảo.
Trong thời gian tới, Bộ TTTT sẽ tăng cường việc thực hiện các chương trình phục vụ đồng bào khu vực miền núi, vùng sâu, vùng xa, biên giới và hải đảo. Đề nghị Sở TTTT các tỉnh, thành phố phối hợp với các đơn vị thuộc Bộ TTTT trong việc chỉ đạo các đài phát thanh - truyền hình triển khai việc phát sóng các chương trình này nhằm đáp ứng ngày càng tốt hơn nhu cầu hưởng thụ thông tin của người dân.
Câu hỏi 7: Thời gian qua, thông qua các loại hình báo chí, đặc biệt là thông qua các Đài phát thanh – truyền hình đã và đang xuất hiện ngày càng nhiều tình trạng quảng cáo bằng hình thức chạy chữ dưới màn hình tivi, trong đó có nhiều nội dung quảng cáo gây nhiều bức xúc, phản cảm cho người xem như: nhắn tin bói toán, cá cược, tải game, các dịch vụ mua bán…do đó, đề nghị Bộ TTTT phối hợp với các Bộ, ngành liên quan sớm nghiên cứu, xây dựng, ban hành các quy định mới để quản lý chặt các doanh nghiệp cung cấp nội dung và lĩnh vực quảng cáo trên báo chí. (Sóc Trăng)
Trả lời: Thời gian qua, hoạt động quảng cáo trên truyền hình đã góp phần tăng nguồn thu đáng kể cho các Đài phát thanh – truyền hình để tái đầu tư cho việc hoạt động sản xuất chương trình, nâng cao chất lượng chương trình truyền hình. Nhờ vào nguồn thu từ quảng cáo, nhiều đài đã tự cân đối được chi phí để chi trả tiền lương, chi phí sản xuất chương trình, giảm bớt được gánh nặng cho ngân sách nhà nước. Đặc biệt, nhiều Đài phát thanh – truyền hình đã thực hiện theo cơ chế tự chủ tài chính và nguồn thu từ quảng cáo là nguồn kinh phí bảo đảm cho hoạt động thường xuyên của các Đài. Việc xây dựng một kênh truyền hình “sạch” (không có quảng cáo) đòi hỏi nguồn ngân sách rất lớn, ngân sách nhà nước khó có thể đáp ứng được. Bên cạnh đó, hoạt động quảng cáo nói chung, quảng cáo trên truyền hình nói riêng cũng góp phần thúc đẩy lưu thông hàng hóa, kích thích nhu cầu tiêu dùng của người dân.
Tuy nhiên, hoạt động quảng cáo trên truyền hình còn có hạn chế nhất định, xảy ra một số trường hợp vi phạm như quảng cáo quá tần suất, thời lượng cho phép trong một chương trình phát thanh, truyền hình (thường xảy ra ở chương trình có đông người xem – giờ vàng); quảng cáo vượt quá tính năng, tác dụng của sản phẩm hàng hóa, dịch vụ gây hiểu nhầm cho người xem; quảng cáo sai sự thật; sử dụng nhiều phương thức quảng cáo chạy chữ dưới màn hình tivi, trong đó có nội dung thiếu thẩm mỹ, gây nhiều bức xúc, phản cảm cho người xem như: nhắn tin bói toán, cá cược, tải game, các dịch vụ mua bán…
Xảy ra tình trạng trên có nhiều nguyên nhân trong đó có nguyên nhân là chính sách quản lý và các văn bản pháp luật về quảng cáo còn nhiều bất cập. Luật Quảng cáo đã có hiệu lực thi hành từ 01/01/2013 nhưng các văn bản hướng dẫn Luật thì chưa được ban hành.
Cơ quan quản lý nhà nước về quảng cáo là Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch, trong lúc hầu hết những vấn đề chủ yếu trong quảng cáo và phương thức quảng cáo (báo, tạp chí, phát thanh, truyền hình, báo điện tử, trang thông tin điện tử, xuất bản phẩm, mạng viễn thông di động, mạng internet …) lại do Bộ TTTT quản lý và cấp phép. Mặt khác, nội dung quảng cáo một số sản phẩm hàng hóa lại do các cơ quan quản lý chuyên ngành chịu trách nhiệm: Ví dụ, các sản phẩm thuộc lĩnh vực y tế như thuốc, thực phẩm chức năng, mỹ phẩm… do Bộ Y tế quản lý. Chất lượng sản phẩm hàng hóa quảng cáo bán hàng trên truyền hình do Bộ Khoa học và Công nghệ quản lý. Hàng giả, hàng nhái liên quan đến các sản phẩm hàng hóa quảng cáo, bán hàng trên truyền hình lại do lực lượng quản lý thị trường (Bộ Công thương) quản lý. Chính vì vậy không bảo đảm tính thống nhất trong công tác quản lý lĩnh vực này.
Để giải quyết một cách căn bản các sai phạm trong hoạt động quảng cáo, bảo đảm quyền lợi cho người tiêu dùng, tránh bức xúc trong dư luận xã hội, trong phạm vi trách nhiệm của mình, Bộ TTTT đã và đang triển khai thực hiện một số giải pháp sau:
- Giải pháp về hoàn thiện cơ chế chính sách:
+ Bộ đang xây dựng dự thảo Nghị định xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực báo chí, xuất bản và thông tin điện tử theo hướng xử lý nghiêm, có tính răn đe cao (tăng mức phạt, hình thức xử phạt).
+ Bộ sẽ phối hợp với Bộ Văn hóa Thể thao và Du lịch xây dựng văn bản hướng dẫn Luật Quảng cáo phù hợp với thực tế để hạn chế tối đa các sai phạm trong hoạt động quảng cáo.
- Giải pháp về thanh, kiểm tra:
+ Bộ TTTT sẽ tăng cường hơn nữa công tác thanh tra, kiểm tra và xử lý các hành vi vi phạm pháp luật trong lĩnh vực quảng cáo trên phát thanh, truyền hình và thông tin điện tử, trong đó có sự phối hợp tham gia của các Sở TTTT các địa phương.
+ Xử lý nghiêm và kịp thời đối với những sai phạm, vi phạm liên quan đến hoạt động quảng cáo trên báo chí, phát thanh, truyền hình.
- Bộ TTTT với vai trò là cơ quan quản lý Nhà nước về báo chí sẽ tiếp tục tăng cường định hướng trong các cuộc giao ban báo chí định kỳ hàng tuần về vấn đề quảng cáo; kịp thời có các văn bản chỉ đạo các cơ quan báo chí, trong đó có các đài phát thanh, truyền hình trong việc phát sóng các chương trình quảng cáo.
- Bên cạnh đó, cần đề cao vai trò, trách nhiệm của cơ quản chủ quản báo chí theo đúng quy định của pháp luật về báo chí.
Câu hỏi 8: Đề nghị Bộ TTTT có những hướng dẫn cụ thể về việc các báo điện tử “cóp nhặt“ các thông tin từ các blog của cá nhân, từ các bình luận khác nhau của độc giả để làm thành tin bài đưa lên báo. (Thanh Hóa)
Trả lời: Trên thực tế hiện nay, có không ít nhà báo sử dụng mạng xã hội như là nơi cung cấp thông tin, đề tài cho tác phẩm báo chí của mình. Theo quy định của pháp luật về báo chí hiện hành, thì thông tin trên internet là một trong những nguồn tin mà báo chí có thể khai thác như các nguồn tin không bị cấm khác. Người đứng đầu cơ quan báo chí chịu trách nhiệm lãnh đạo và quản lý cơ quan báo chí về mọi mặt, bảo đảm thực hiện tôn chỉ, mục đích của cơ quan báo chí và chịu trách nhiệm trước thủ trưởng cơ quan chủ quản và trước pháp luật về mọi hoạt động của cơ quan báo chí, trong đó có việc bảo đảm thông tin đăng tải đúng sự thật, phù hợp với với quy định của Luật Báo chí, Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Báo chí.
Tuy nhiên, trong thời gian qua, để xảy ra tình trạng báo điện tử “cóp nhặt” các thông tin từ các blog của cá nhân, từ các bình luận khác nhau của độc giả để làm thành tin bài đưa lên báo chỉ trở nên bức xúc trong dư luận xã hội khi cơ quan báo chí không thực hiện nghiêm việc kiểm chứng nguồn tin, thông tin thiếu tính định hướng.
Nhằm hạn chế tính trạng này, trong các cuộc họp, hội nghị về báo chí, Bộ TTTT thường xuyên nhắc nhở các cơ quan báo chí tuân thủ chặt chẽ quy trình biên tập, xuất bản tin, bài và tuân thủ các quy định của pháp luật về báo chí. Khi xảy ra sai phạm, tùy vào tính chất, mức độ vi phạm, cơ quan quản lý nhà nước về báo chí đã có các biện pháp xử lý kịp thời nhằm chấn chỉnh hoạt động của các cơ quan báo chí.
Câu hỏi 9: Để triển khai dự án 3 thuộc Chương trình MTQG đưa thông tin về cơ sở, đề nghị Bộ TTTT phê duyệt bổ sung danh sách các xã thụ hưởng thuộc chương trình MTQG (Thừa Thiên Huế có 57 xã, còn 18 xã chưa được bổ sung) và có kế hoạch tổ chức đào tạo giảng viên để địa phương sớm triển khai kế hoạch. Đồng thời quan tâm tạo điều kiện để trong năm 2014, tỉnh Thừa Thiên Huế được hưởng dự án 02 thuộc chương trình. Hiện tại huyện A Lưới còn 8 xã chưa có Đài Truyền thanh cơ sở. (Thừa Thiên – Huế)
Trả lời: Tiếp thu kiến nghị của Sở, trong quá trình xây dựng kế hoạch thực hiện Chương trình năm 2014 để thực hiện dự án 2 có đầu tư trạm phát lại, đài truyền thanh xã, Bộ TTTT sẽ xem xét, quan tâm đến kiến nghị của Sở TTTT Thừa Thiên - Huế.
Câu hỏi 10: Đề nghị Bộ TTTT có văn bản pháp quy hoặc văn bản hướng dẫn việc quản lý, vận hành các trạm phát lại phát thanh – truyền hình trực thuộc Đài Phát thanh - Truyền hình cấp tỉnh và Đài Truyền thanh - Truyền hình cấp huyện để các địa phương thống nhất và thuận lợi trong việc quản lý, vận hành các trạm phát lại phát thanh - truyền hình. (Yên Bái)
Trả lời:
- Theo quy định của pháp luật, các trạm phát lại phát thanh - truyền hình có nhiệm vụ tiếp phát lại nguyên trạng các chương trình phát thanh - truyền hình của Đài Trung ương và Đài Phát thanh – Truyền hình tỉnh, thành phố.
- Hiện nay, việc quản lý, vận hành các trạm phát lại phát thanh - truyền hình đã được quy định trong một số văn bản quy phạm pháp luật, cụ thể:
+ Theo quy định tại Thông tư liên tịch số 17/2010/TTLT-BTTTT-BNV ngày 27/7/2010 hướng dẫn thực hiện chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và cơ cấu tổ chức của Đài Phát thanh - Truyền hình thuộc UBND cấp tỉnh, đài truyền thanh - truyền hình thuộc UBND cấp huyện thì đài truyền thanh – truyền hình cấp huyện chịu sự quản lý trực tiếp của UBND cấp huyện, quản lý nhà nước của Sở TTTT, hướng dẫn về chuyên môn, nghiệp vụ, kỹ thuật của Đài phát Thanh - Truyền hình cấp tỉnh.
Đài Phát thanh - Truyền hình: “Trực tiếp vận hành, quản lý, khai thác hệ thống kỹ thuật chuyên ngành để
sản xuất chương trình, truyền dẫn tín hiệu và phát sóng các chương trình phát thanh, truyền hình của địa phương và quốc gia theo quy định của pháp luật; phối hợp với các cơ quan, tổ chức khác để đảm bảo sự an toàn của hệ thống kỹ thuật này” và có trách nhiệm “hướng dẫn về chuyên môn, nghiệp vụ, kỹ thuật đối với các Đài Truyền thanh - Truyền hình hoặc Đài Truyền thanh huyện, thị xã, thành phố thuộc UBND huyện, thị xã, thành phố trực thuộc tỉnh, thành phố theo quy định của pháp luật” (khoản 4 và 7 Điều 2).
Đài Truyền thanh - Truyền hình cấp huyện có nhiệm vụ “Quản lý, vận hành các đài phát lại truyền hình, đài phát sóng phát thanh trên địa bàn theo sự phân công. Hướng dẫn chuyên môn, nghiệp vụ kỹ thuật đối với Đài Truyền thanh xã, phường, thị trấn trên địa bàn” (khoản 3, Điều 5).
+ Máy phát sóng tại các trạm phát lại phải đảm bảo tuân thủ các quy định của pháp luật về tần số như công suất máy phát, bức xạ điện từ, trong đó có quy định tại Thông tư số 24/2010/TT-BTTTT ngày 28/10/2010 của Bộ TTTT quy định chi tiết và hướng dẫn thủ tục cấp giấy phép sử dụng tần số vô tuyến điện; cho thuê, cho mượn thiết bị vô tuyến điện; sử dụng chung tần số vô tuyến điện.
+ Trang thiết bị máy móc của các trạm phải được dán tem hợp chuẩn theo quy định tại Thông tư số 30/2011/TT-BTTTT ngày 31/10/2011 của Bộ TTTT quy định về chứng nhận hợp quy và công bố hợp quy đối với sản phẩm, hàng hóa chuyên ngành công nghệ thông tin và truyền thông.
-Tuy nhiên, để các địa phương thống nhất và thuận lợi trong việc quản lý, vận hành các trạm phát lại phát thanh - truyền hình, trong thời gian tới, đề nghị Sở TTTT các tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương báo cáo thống kê và đánh giá hiệu quả vận hành của các trạm phát lại phát thanh - truyền hình và khó khăn, vướng mắc để từ đó phối hợp với các cơ quan chức năng có liên quan hướng dẫn việc quản lý, vận hành các trạm phát lại phát thanh - truyền hình đảm bảo tính hiệu quả cao.
Câu hỏi 11: Đề nghị bỏ Quyết định thành lập (đối với tổ chức thuộc hệ thống chính trị) trong thủ tục hồ sơ cấp phép thiết lập trang thông tin điện tử tổng hợp. (Gia Lai)
Câu hỏi 12: Hiện nay phần mềm quản lý đại lý Internet được quy định tại Thông tư liên tịch số 02/2005/TTLT-BCVT-VHTT-CA-KHĐT và các hướng dẫn của Bộ TTTT. Tuy nhiên thực tế triển khai một số phần mềm chưa hiệu quả đặc biệt là phần mềm ICMwin của VNPT-ISP có số lượng đại lý chiếm 70-80%. Đề nghị Bộ chỉ đạo thống nhất trong toàn quốc về việc áp dụng phần mềm quản lý đại lý Internet cho phù hợp thực tiễn phát triển. (Hải Phòng)
Trả lời: Việc sử dụng phần mềm quản lý đại lý Internet đã được quy định cụ thể trong Thông tư liên tịch số 02/2005/TTLT-BCVT-VHTT-CA-KHĐT ngày 14/7/2005 về quản lý đại lý Internet và các công văn hướng dẫn của Bộ như Công văn số 2520/BBCVT-VT ngày 14/12/2005; Công văn số 4386/BTTTT-VT ngày 28/12/2010. Nội dung công văn hướng dẫn nêu rõ: Bộ TTTT (Bộ Bưu chính, Viễn thông trước đây) đã chủ trì, phối hợp với Bộ Công an thẩm định và phê duyệt các phần mềm quản lý đại lý Internet của VNPT, Viettel, FPT (các văn bản phê duyệt số 1772/BBCVT-VT ngày 28/8/2006, số 2160/BBCVT-VT ngày 11/10/2006, số 702/BBCVT-VT ngày 05/04/2007 và đã được gửi cho các Sở TTTT). Các ISP có thể sử dụng phần mềm quản lý đại lý đã được phê duyệt của mình, hoặc sử dụng phần mềm quản lý đại lý đã được phê duyệt của ISP khác trên cơ sở có thỏa thuận và điều chỉnh về mặt kỹ thuật cho phù hợp với hệ thống mạng của mình (trường hợp này phải báo cáo Bộ TTTT và Bộ Công an). Trong quá trình triển khai công tác thực thi QLNN tại địa phương, đề nghị Sở TTTT tiếp tục tăng cường công tác thanh kiểm tra việc chấp hành quy định về sử dụng phần mềm đại lý Internet và phản ánh về Bộ những bất cập chi tiết, cụ thể trong việc thực thi các quy định này để kịp thời nghiên cứu điều chỉnh cho phù hợp.
Câu hỏi 13: Đề nghị Bộ nghiên cứu, xây dựng và ban hành các văn bản quy định xử phạt vi phạm hành chính đối với các lĩnh vực sau:
- Lĩnh vực phát thanh, truyền hình, hiện nay chế tài xử lý rất ít và hạn chế (ví dụ quy định chế tài xử phạt đối với hành vi phát sóng trên truyền hình thời lượng không đủ so với quy định: Thời lượng phim truyện Việt Nam, thời lượng phim dành cho trẻ em ...; hành vi không lưu trữ các chương trình phát thanh, truyền hình đã phát sóng....), công tác thanh tra đã diễn ra có phát hiện những tồn tại nêu trên nhưng gặp khó khăn trong công tác xử lý.
- Đối với lĩnh vực truyền hình trả tiền: Hành vi vi phạm về quyền tác giả và các quyền liên quan (tại Nghị định số 47/2009/NĐ-CP ngày 13/5/2009 của Chính phủ quy định xử phạt vi phạm hành chính về quyền tác giả, quyền liên quan và Nghị định số 109/2011/NĐ-CP ngày 02/12/2011 của Chính phủ về sửa đổi, bổ sung một số điều của Nghị định số 47/2009/NĐ-CP ngày 13/5/2009 của Chính phủ quy định xử phạt vi phạm hành chính về quyền tác giả, quyền liên quan không quy định thẩm quyền xử lý vi phạm hành chính của Thanh tra chuyên ngành TTTT "trong khi đó lĩnh vực truyền hình thuộc chức năng quản lý Nhà nước của Bộ, Sở TTTT" nên gây khó khăn rất lớn trong quá trình thanh tra, kiểm tra trong lĩnh vực này). (Gia Lai)
Trả lời:
1. Hiện nay, đối với thời lượng phát sóng phim truyện Việt Nam, việc lưu trữ các chương trình phát thanh - truyền hình đã phát sóng đang được quy định tại các văn bản quy phạm pháp luật về báo chí, về điện ảnh và về bản quyền tác giả, trong đó:
- Tại điểm 5, Điều 16 Nghị định số 51/2002/NĐ-CP ngày 26/4/2002 của Chính phủ quy định chi tiết thi hành Luật Báo chí, Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Báo chí quy định: “Chương trình phát thanh, truyền hình đã phát sóng, báo điện tử đã phát trên mạng phải lưu giữ văn bản tại cơ quan báo chí ít nhất 6 tháng, lưu giữ các phim, băng, đĩa ghi âm, ghi hình, đã phát sóng, trên mạng ít nhất ba mươi (30) ngày”.
- Tại Thông tư số 15/2009/TT-BTTTT ngày 04/5/2009 của Bộ TTTT quy định về điều kiện, thủ tục phát sóng quảng bá trực tiếp các kênh chương trình truyền hình địa phương trên vệ tinh, trong đó có quy định rõ: “Tổng thời lượng phát sóng phim nước ngoài tại khung giờ từ 20h đến 21h hàng ngày đối với kênh chương trình truyền hình không vượt quá 50% trong 1 tuần (không vượt quá 7 tiếng/tuần)”.
2. Bộ TTTT đã và đang thực hiện việc cấp đổi lại Giấy phép hoạt động phát thanh - truyền hình; Giấy phép sản xuất kênh chương trình phát thanh truyền hình, trong đó quy định rõ tôn chỉ mục đích, nội dung, thời lượng phát sóng các chương trình phát thanh, truyền hình. Đây là cơ sở để kiểm tra, thanh tra nội dung chương trình phát thanh, truyền hình của các đài phát thanh - truyền hình.
Bên cạnh đó, việc xử lý các hành vi vi phạm hành chính trong hoạt động báo chí xuất bản, quyền tác giả, quyền liên quan đang được quy định tại các văn bản quy phạm pháp luật sau:
- Nghị định số 02/2011/NĐ-CP ngày 06/01/2011 của Chính phủ ban hành quy định xử phạt vi phạm hành chính trong hoạt động báo chí, xuất bản. Nghị định này có hiệu lực thi hành kể từ ngày 25/02/2011. Trong đó quy định, phạt tiền từ 3.000.000 đồng đến 5.000.000 đồng đối với hành vi:
+ Thực hiện không đúng quy định ghi trong Giấy phép;
+ Không lưu giữ văn bản, bản ghi âm, ghi hình đã phát trên sóng, lưu dữ liệu đã phát trên mạng hoặc lưu giữ không đúng thời gian quy định.
- Nghị định số 47/2009/NĐ-CP ngày 13/5/2009 của Chính phủ quy định xử phạt vi phạm hành chính về quyền tác giả, quyền liên quan.
- Nghị định số 109/2011/NĐ-CP ngày 02/12/2011 của Chính phủ về sửa đổi, bổ sung một số điều của Nghị định số 47/2009/NĐ-CP ngày 13/5/2009 của Chính phủ quy định xử phạt vi phạm hành chính về quyền tác giả, quyền liên quan.
3. Để thực hiện nghiêm việc quản lý nhà nước, giải quyết những bất cập nảy sinh, Bộ TTTT đang hoàn thiện dự thảo Nghị định sửa đổi bổ sung Nghị định số 02/2011/NĐ-CP quy định xử phạt vi phạm hành chính trong hoạt động báo chí, xuất bản. Theo đó, sẽ quy định cụ thể, chi tiết các hành vi vi phạm trong hoạt động phát thanh, truyền hình, làm cơ sở thực hiện tốt hoạt động thanh tra, kiểm tra theo kiến nghị của Sở.
4. Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch là cơ quan quản lý nhà nước về bản quyền, quyền tác giả, quyền liên quan và có trách nhiệm chủ trì xây dựng hệ thống văn bản quy phạm pháp luật nhằm hạn chế tốt nhất tình trạng vi phạm bản quyền. Trong thời gian tới, Bộ sẽ phối hợp với Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch hoàn thiện hệ thống văn bản quy phạm pháp luật, bảo đảm hiệu quả thực thi trên thực tế.
II. Xuất bản:
Câu hỏi 14: Luật Xuất bản đã được Quốc hội khóa XIII, kỳ họp thứ 4 thông qua ngày 20/11/2012 (Luật số 19/2012/QH13), có hiệu lực thi hành từ ngày 01/07/2013. Để Luật Xuất bản sớm đi vào cuộc sống, Bộ TTTT sớm ban hành các văn bản hướng dẫn thi hành và tổ chức tập huấn cho các Sở về Luật Xuất bản và các văn bản có liên quan. (Khánh Hòa)
Câu hỏi 15: Luật Xuất bản đã được Quốc hội khóa XIII, kỳ họp thứ 4 thông qua ngày 20/11/2012 (Luật số 19/2012/QH13), có hiệu lực thi hành từ ngày 01/07/2013. Để Luật Xuất bản sớm đi vào cuộc sống, Bộ TTTT sớm ban hành các văn bản hướng dẫn thi hành và tổ chức tập huấn cho các Sở về Luật Xuất bản và các văn bản có liên quan. (Phú Yên)
Trả lời câu 14 và 15: Bộ TTTT đã trình Chính phủ ban hành Nghị định quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành một số điều của Luật Xuất bản, đồng thời, Bộ đã giao nhiệm vụ cho Cục Xuất bản chủ trì, phối hợp với các cơ quan, đơn vị liên quan khẩn trương xây dựng Thông tư hướng dẫn. Bên cạnh đó, Kế hoạch triển khai thi hành Luật đang được xây dựng để ban hành, trong đó có việc tổ chức tập huấn cho các Sở và đối tượng liên quan để sớm tạo điều kiện cho các cơ quan, đơn vị thực thi Luật và các văn bản hướng dẫn thi hành được thuận lợi, thống nhất.
Câu hỏi 16:Phương thức xác nhận kế hoạch đề tài xuất bản vẫn còn nhiều bất cập, đề nghị Cục Xuất bản - Bộ TTTT xem xét đổi mới quy trình đăng ký kế hoạch, tránh tình trạng các Nhà xuất bản mang tiếng là chậm, không đáp ứng kịp thời các ấn phẩm có nhu cầu xuất bản đột xuất của xã hội.(Thừa Thiên – Huế)
Trả lời: Về quy trình đăng ký kế hoạch xuất bản đã được quy định tại Luật Xuất bản 2004 và Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Xuất bản 2008 như sau: “Trước khi xuất bản, nhà xuất bản phải đăng ký kế hoạch xuất bản với Bộ TTTT và phải được Bộ TTTT xác nhận bằng văn bản. Trong thời hạn mười ngày, kể từ ngày nhận được đăng ký kế hoạch xuất bản của nhà xuất bản, Bộ TTTT xác nhận bằng văn bản việc đăng ký kế hoạch xuất bản”.
Theo trình tự, trước khi các nhà xuất bản đăng ký kế hoạch xuất bản với Bộ TTTT, phải trình kế hoạch xuất bản để cơ quan chủ quản xét duyệt (theo Điều 13, Luật Xuất bản 2004). Tuy nhiên, rất ít cơ quan chủ quản bố trí được nhân lực chuyên trách thực hiện nhiệm vụ này. Luật Xuất bản 2004 cũng không quy định thời gian cơ quan chủ quản xét duyệt kế hoạch xuất bản, dẫn tới kéo dài thời gian đăng ký kế hoạch xuất bản của nhà xuất bản. Chính vì sự bất cập nêu trên, để đảm bảo đáp ứng kịp thời nhu cầu của thị trường, Luật Xuất bản 2012 được Quốc hội ban hành ngày 20/11/2012, có hiệu lực thi hành từ 01/7/2013 đã sửa đổi quy định từ đăng ký kế hoạch xuất bản sang đăng ký xuất bản cho phù hợp với thực tiễn. Quy trình đăng ký xuất bản được thay đổi, cụ thể như sau:
- Rút ngắn thời hạn xác nhận đăng ký xuất bản của các nhà xuất bản, từ 10 ngày xuống 07 ngày: “Sau 07 ngày làm việc, kể từ ngày nhận được đăng ký xuất bản của nhà xuất bản, Bộ TTTT xác nhận đăng ký xuất bản bằng văn bản”.
- So với Luật Xuất bản 2004, Luật Xuất bản 2012 cũng đã bỏ quy định về việc cơ quan chủ quản xét duyệt kế hoạch xuất bản của nhà xuất bản mà chỉ định hướng kế hoạch đề tài trên cơ sở chức năng, nhiệm vụ của nhà xuất bản.
Để rút ngắn thời gian, trong thời gian tới, cơ quan quản lý nhà nước sẽ nghiên cứu, xem xét và báo cáo với Bộ cho triển khai ứng dụng công nghệ thông tin trong việc xác nhận đăng ký xuất bản của các nhà xuất bản, để giải quyết việc xác nhận đăng ký xuất bản trong thời gian nhanh nhất.
III. Bưu chính:
Câu hỏi 17: Khi xác nhận thông báo kinh doanh dịch vụ chuyển phát cần yêu cầu doanh nghiệp bổ sung “giấy xác nhận địa chỉ hoạt động” tại các địa phương, có xác nhận của Sở TTTT tỉnh, thành nhằm tránh tình trạng hoạt động kinh doanh tùy tiện tại các địa phương. (Gia Lai)
Trả lời: Tại điểm a, khoản 1, điều 7 của Nghị định số 47/2011/NĐ-CP quy định chi tiết thi hành một số điều của Luật Bưu chính xác định Văn bản thông báo hoạt động bưu chính được lập theo mẫu tại Phụ lục II của Nghị định. Trong đó quy định thông tin về tổ chức, doanh nghiệp bao gồm tên tổ chức, doanh nghiệp; địa chỉ trụ sở chính; giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh; vốn điều lệ; điện thoại; Website, E-mail; người đại diện theo pháp luật, người liên hệ thường xuyên. Hồ sơ xác nhận thông báo được lập thành 01 bộ là bản gốc, theo đó, doanh nghiệp tự chịu trách nhiệm về tính chính xác của nội dung hồ sơ. Xác nhận thông báo hoạt động bưu chính chỉ là một khâu trong công tác quản lý việc cung ứng dịch vụ, xác định sự hiện diện của doanh nghiệp bưu chính. Để hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp được thực hiện đúng theo quy định của pháp luật cũng như phù hợp với phạm vi kinh doanh mà doanh nghiệp đã được xác nhận thì còn cần phải đẩy mạnh công tác hậu kiểm, thanh tra, kiểm tra sau khi doanh nghiệp được cơ quan nhà nước có thẩm quyền cấp xác nhận thông báo hoạt động bưu chính.
Vì vậy, việc yêu cầu doanh nghiệp bổ sung giấy xác nhận địa chỉ hoạt động tại các địa phương là không cần thiết vì vừa gây khó khăn cho doanh nghiệp khi thực hiện thông báo hoạt động theo luật định, vừa để tránh phát sinh thêm một thủ tục hành chính cho Sở TTTT các tỉnh, thành.
Câu hỏi 18: Tại Thông báo kết luận số 21/TB-BTTTT ngày 08/3/2012 của Bộ trưởng Nguyễn Bắc Son tại Hội nghị toàn quốc về điểm Bưu điện - Văn hóa xã đã chỉ đạo: Giao Tổng công ty Bưu chính Việt Nam nay là Tổng công ty Bưu điện rà soát và quy hoạch lại hệ thống điểm Bưu điện - Văn hóa xã trên địa bàn các tỉnh, thành phố. Tuy nhiên, cho đến nay các Sở TTTT vẫn chưa nhận được Dự thảo Quy hoạch. Đề nghị Bộ TTTT sớm chỉ đạo Tổng công ty Bưu điện Việt Nam (VNpost) thực hiện nội dung trên. (Hải Phòng)
Trả lời: Quy hoạch hệ thống Điểm Bưu điện - Văn hóa xã đã được Bộ giao cho Tổng công ty Bưu điện Việt Nam (VNPost) triển khai xây dựng. Ngày 02/8/2013, Bộ TTTT đã ban hành Thông tư số 17/2013/TT-BTTTT quy định về hoạt động của điểm Bưu điện - Văn hóa xã. Tại Khoản 1, Điều 14 của Thông tư đã quy định trách nhiệm của VNPost: “Thực hiện tổng rà soát và xây dựng quy hoạch hệ thống điểm Bưu điện - Văn hóa xã trên phạm vi toàn quốc trình Bộ Thông tin và Truyền thông phê duyệt”. Điểm b, Khoản 2, Điều 13 cũng quy định rõ trách nhiệm của Sở TTTT: “Tham gia ý kiến về quy hoạch hệ thống điểm Bưu điện - Văn hóa xã trên địa bàn”. Triển khai thực hiện Thông tư trên, ngày 23/9/2013, Bộ TTTT đã có văn bản 2801/BTTTT-BC yêu cầu VNPost khẩn trương xây dựng và trình Bộ quy hoạch hệ thống điểm Bưu điện - Văn hóa xã trên toàn quốc để xem xét, ban hành.
Câu hỏi 19: Bổ sung Hòa Bình vào dự án "Nâng cao khả năng sử dụng máy tính và truy cập Internet công cộng tại Việt Nam" do Quỹ Bill and Melinda Gates tài trợ tại tỉnh Hòa Bình trong năm 2013, giúp người dân vùng sâu, vùng xa, vùng đặc biệt khó khăn sớm được thụ hưởng ưu đãi các dịch vụ viễn thông - CNTT và nâng cao hiệu quả hoạt động của các điểm BĐVHX. (Hòa Bình)
Trả lời:
1. Trong thời gian xây dựng đề xuất dự án 2010-2011, khi tiến hành khảo sát lựa chọn 40 tỉnh để trình Lãnh đạo Bộ TTTT, Chính phủ và nhà tài trợ phê duyệt thì tỉnh Hòa Bình đã được Bộ TTTT, Chính phủ và JIBIC phê duyệt và đang triển khai “Dự án Internet Cộng đồng” với kinh phí là 30 triệu USD do JIBIC tài trợ, do đó, trong thời gian trên tỉnh Hòa Bình không có tên trong đề xuất để tham gia dự án BMGF-VN.
2. Đối với Dự án "Nâng cao khả năng sử dụng máy tính và truy cập Internet công cộng tại Việt Nam" do Quỹ Bill and Melinda Gates tài trợ: Danh sách 40 tỉnh tham gia Dự án đã được Lãnh đạo Bộ TTTT phê duyệt từ năm 2010. Được nhà tài trợ đồng ý tại thỏa thuận tài trợ và đã được Thủ tướng Chính phủ quyết định phê duyệt tại Văn kiện dự án trong năm 2011. Theo đó, tất cả các điều khoản đã được cam kết sẽ phải thực hiện đầy đủ, nghiêm túc trong suốt 5 năm của dự án (2011-2016). Do vậy, trong giai đoạn này không thể bổ sung tỉnh Hòa Bình vào danh sách đối tượng của Dự án được.
Câu hỏi 20: Đề nghị Bộ tham mưu với Chính phủ chính sách đầu tư, hỗ trợ cấp phát một số đầu báo như: Nhân dân, Văn hoá, Dân tộc Miền núi, Nông thôn mới… cho các điểm Bưu điện - Văn hoá xã ở các tỉnh miền núi. (Hòa Bình)
Trả lời: Một số đầu báo mà Sở kiến nghị như Văn hóa, Dân tộc Miền núi đã nằm trong diện được Nhà nước cấp (không thu tiền) 20 loại ấn phẩm báo, tạp chí cho vùng dân tộc thiểu số và miền núi, vùng đặc biệt khó khăn giai đoạn 2012-2015 theo Quyết định số 2472/QĐ-TTg của Thủ tướng Chính phủ. Theo từng giai đoạn, Bộ sẽ tiếp tục làm việc với các cơ quan đơn vị có liên quan để có các chính sách phù hợp đối với các loại báo chí cho điểm Bưu điện – Văn hóa xã ở các tỉnh miền núi.
Câu hỏi 21: Ưu tiên triển khai Dự án “Nâng cao khả năng sử dụng máy tính và truy nhập Internet công cộng tại Việt Nam” do Quỹ Bill Gates tài trợ cho các điểm thư viện công cộng cấp tỉnh, cấp huyện, điểm Bưu điện - Văn hóa xã và thư viện xã trên địa bàn tỉnh. (Quảng Bình)
Trả lời:
1. Danh sách, kế hoạch, kinh phí và thời gian thực hiện của 40 tỉnh tham gia Dự án đã được Bộ TTTT phê duyệt từ năm 2010. Được nhà tài trợ đồng ý tại thỏa thuận tài trợ và đã được Thủ tướng Chính phủ quyết định phê duyệt tại Văn kiện dự án trong năm 2011. Tất cả các điều khoản đã được cam kết và phê duyệt này sẽ phải được thực hiện đầy đủ, nghiêm túc trong 5 năm của dự án (2011-2016) theo Thỏa thuận dự án, Văn kiện dự án và đúng với các quy định tại Nghị định 93/2009/NĐ-CP ban hành Quy chế về quản lý và sử dụng viện trợ Phi chính phủ nước ngoài.
2. Theo Văn kiện dự án, việc triển khai dự án tại 40 tỉnh được phân chia theo 3 đợt, mỗi đợt đều có 4 vùng miền, mỗi vùng miền có 3 đến 6 tỉnh được chọn gần nhau về địa lý, thuận tiện về giao thông, phù hợp về điều kiện kinh tế, chính trị, xã hội để đảm bảo việc triển khai tất cả các hợp phần của dự án sao cho thuận lợi, hiệu quả và hợp lý nhất. Cụ thể như sau:
Đợt 1: Thực hiện ở 12 tỉnh (trong đó có 3 tỉnh thuộc dự án thí điểm để rút kinh nghiệm và triển khai thêm 9 tỉnh mới)
Vùng 1: Thái Nguyên - Tuyên Quang - Hà Giang;
Vùng 2: Thanh Hóa - Nghệ An - Hà Tĩnh;
Vùng 3: Đắc Nông - Bình phước - Tây Ninh;
Vùng 4: Bến Tre - Trà Vinh - Sóc Trăng
Thời gian thực hiện là 15 tháng từ 4/2012-6/2013
Đợt 2: Thực hiện ở 16 tỉnh
Vùng 1: Bắc Cạn - Cao Bằng - Lạng Sơn;
Vùng 2: Phú Yên - Khánh Hòa - Ninh Thuận - Bình Thuận;
Vùng 3: Kon Tum - Gia Lai - Đắc lắc - Lâm Đồng;
Vùng 4: Hậu Giang - Bạc Liêu - Cà Mau - Vinh Long - Đồng Tháp.
Thời gian thực hiện là 15 tháng từ 7/2013-9/2014.
Đợt 3: Thực hiện ở 12 tỉnh:
Vùng 1: Sơn La - Điện Biên - Lai Châu;
Vùng 2: Phú Thọ - Yên Bái - Lào Cai;
Vùng 3: Quảng Bình - Quảng Trị - Thừa Thiên Huế;
Vùng 4: Quảng Nam - Quảng Ngãi - Bình Định.
Thời gian thực hiện là 15 tháng từ 10/2014-12/2015.
Sau đó là thời gian 6 tháng để đóng gói, kết thúc dự án.
Như vậy, tỉnh Quảng Bình đã được phê duyệt tham gia dự án BMGF-VN vào đợt 3 và thời gian thực hiện là 15 tháng dự kiến từ 10/2014-12/2015. Trước và trong thời gian này Bộ TTTT, Bộ Văn hóa Thể thao và Du lịch, Ban QLDA BMGF-VN sẽ có các văn bản và các hoạt động cụ thể phối hợp với UBND tỉnh Quảng Bình, Sở TTTT, Sở Văn hóa Thể thao và Du lịch và các đơn vị liên quan để triển khai dự án trên địa bàn theo quy định.
Câu hỏi 22: Đối với tiêu chí số 8 - tiêu chí Bưu điện trong Chương trình MTQG xây dựng nông thôn mới.
Căn cứ theo Quyết định số 800/QĐ-TTg ngày 04/6/2010 của Thủ tướng Chính phủ về Bộ tiêu chí nông thôn mới có đưa ra nội dung: đến năm 2015 đạt 45% số xã có điểm Bưu điện và Internet đạt chuẩn, đến năm 2020 đạt 70% số xã có điểm Bưu điện và Internet đạt chuẩn và các quy định tại tiêu chí số 8 - tiêu chí Bưu điện.
Sở TTTT đã xây dựng các đề án để phát triển tiêu chí số 8 - tiêu chí Bưu điện trong Bộ tiêu chí nông thôn mới để xin kinh phí từ chương trình MTQG xây dựng nông thôn mới, cụ thể là để củng cố, duy trì và phát triển các điểm Bưu điện văn hóa xã (BĐVHX), phát triển dịch vụ internet tại điểm BĐVHX. Tuy nhiên các đề án này không thể xin kinh phí từ nguồn nông thôn mới do theo quy định tại Thông tư liên tịch số 26/2011/TTLT-BNNPTNT-BTC-BKHĐT và Quyết định số 695/QĐ-TTg ngày 08/6/2012 của Thủ tướng Chính phủ thì không có nội dung đầu tư cho tiêu chí số 8 (bưu điện) trong danh mục được hỗ trợ từ nguồn vốn của Chương trình MTQG xây dựng nông thôn mới.
Với điều kiện kinh doanh hiện nay của Bưu điện, nếu không có sự hỗ trợ từ nguồn kinh phí chương trình MTQG xây dựng nông thôn mới hoặc từ các nguồn kinh phí khác thì không thể nào đạt được chỉ tiêu trên.
Vì vậy, kính đề nghị Bộ TTTT kiến nghị với Chính phủ, Bộ Tài chính bổ sung thêm nội dung đầu tư cho tiêu chí số 8 từ nguồn kinh phí Chương trình MTQG xây dựng nông thôn mới, cụ thể là bổ sung thêm nội dung đầu tư cho BĐVHX, hệ thống thông tin vùng sâu, vùng xa. (Quảng Nam)
Trả lời:Tiêu chí số 8 trong Chương trình xây dựng nông thôn mới thuộc hoạt động của các doanh nghiệp bưu chính, viễn thông. Các doanh nghiệp này đã có cơ chế hỗ trợ hoạt động công ích đối với vùng sâu, vùng xa. Tiếp thu ý kiến của Sở TTTT, Bộ sẽ có ý kiến đề nghị với Ban chỉ đạo thực hiện Chương trình xây dựng nông thôn mới cũng như việc xây dựng các cơ chế, chính sách của Ngành trong thời gian tới để đảm bảo Ngành TTTT có thể hoàn thành tiêu chí số 8 của Chương trình.
Theo tinh thần của Quyết định 65/2008/QÐ-TTg về cung ứng dịch vụ bưu chính công ích, từ năm 2008, Nhà nước đã khoán mức trợ cấp hàng năm để Tổng công ty Bưu điện Việt Nam (VNPost) duy trì, nâng cấp hoạt động mạng bưu chính công cộng để cung ứng dịch vụ bưu chính công ích (trong đó bao gồm các điểm Bưu điện – Văn hóa xã). Hiện nay, VNPost đang triển khai việc rà soát tổng thể để tổ chức lại mạng lưới điểm Bưu điện – Văn hóa xã (trong đó có nội dung nâng cấp, sửa chữa nhằm nâng cao hiệu quả hoạt động của các điểm Bưu điện – Văn hóa xã).
Câu hỏi 23: Chỉ đạo VNPT cho các doanh nghiệp khác kết nối vào mạng bưu chính để tận dụng năng lực mạng lưới, vì khi kết nối vào mạng bưu chính, các doanh nghiệp phải trả chi phí theo quy định. Hiện nay, các doanh nghiệp bưu chính, chuyển phát tự tổ chức xây dựng mạng cho riêng mình chứ chưa có sự liên minh, liên kết trong việc khai thác mạng lưới của nhau, điều này đã làm cho chi phí xây dựng mạng của các doanh nghiệp tăng và kèm theo đó là giá cước dịch vụ cũng tăng theo, tính cạnh tranh giảm. Đây là một yếu tố không thuận lợi cho các doanh nghiệp bưu chính, chuyển phát trong nước khi gặp phải sự cạnh tranh của các doanh nghiệp nước ngoài kinh doanh tại Việt Nam. (Quảng Trị)
Trả lời: Việc tạo điều kiện các doanh nghiệp bưu chính có nhu cầu kết nối vào mạng bưu chính công cộng trên cơ sở thỏa thuận hợp tác với VNPost, doanh nghiệp được Nhà nước giao quản lý, khai thác mạng bưu chính công cộng, nhằm tận dụng hạ tầng, giảm chi phí đầu tư, tăng cạnh tranh là hợp lý, nhất là trong hoàn cảnh hiện nay, khi nhà đầu tư nước ngoài được phép thành lập doanh nghiệp bưu chính 100% vốn nước ngoài tại Việt Nam.
Để pháp quy hóa nội dung nêu trên, hiện Bộ TTTT đang nghiên cứu, xem xét để sớm ban hành văn bản quy phạm pháp luật quy định về kết nối mạng giữa các doanh nghiệp bưu chính, trong đó có kết nối vào mạng bưu chính công cộng.
Câu hỏi 24: Cần nghiên cứu, xây dựng thêm những cơ chế, chính sách hỗ trợ dịch vụ bưu chính, các Điểm Bưu điện văn hóa xã để doanh nghiệp đảm bảo duy trì hoạt động kinh doanh và phục vụ công ích. (Sóc Trăng)
Trả lời: Từ sau năm 2013, trên cơ sở Nhà nước đã hỗ trợ trước đó, VNPost (với tư cách là doanh nghiệp được Nhà nước giao thiết lập, quản lý, khai thác và phát triển mạng bưu chính công cộng, cung cấp các dịch vụ bưu chính công ích) phải chủ động trong sản xuất, kinh doanh để tự bù đắp chi phí duy trì hoạt động của mạng bưu chính công cộng để đảm bảo duy trò hoạt động kinh doanh cũng như phục vụ công ích theo kế hoạch của Nhà nước.
Hiện tại, Bộ TTTT đang nghiên cứu các cơ chế, chính sách để hỗ trợ dịch vụ bưu chính công ích cũng như hoạt động của các điểm Bưu điện – Văn hóa xã.
Câu hỏi 25: Để các điểm phục vụ bưu điện đạt chuẩn tiêu chí số 8 - tiêu chí về bưu điện, nhà nước cần hỗ trợ và có chính sách về tài chính để sửa chữa, nâng cấp các điểm bưu điện văn hóa xã. (Yên Bái)
Trả lời:Tiêu chí số 8 trong Chương trình xây dựng Nông thôn mới thuộc hoạt động của các doanh nghiệp bưu chính, viễn thông, các doanh nghiệp này đã có cơ chế hỗ trợ hoạt động công ích đối với vùng sâu, vùng xa. Bộ sẽ đề nghị với Ban chỉ đạo thực hiện Chương trình Xây dựng Nông thôn mới cũng như việc xây dựng các cơ chế, chính sách của Ngành trong thời gian tới để đảm bảo Ngành TTTT có thể hoàn thành tiêu chí số 8 của Chương trình.
Theo tinh thần của Quyết định 65/2008/QÐ-TTg về cung ứng dịch vụ bưu chính công ích, từ năm 2008, Nhà nước đã khoán mức trợ cấp hằng năm để Tổng công ty Bưu điện Việt Nam (VNPost) duy trì, nâng cấp hoạt động mạng bưu chính công cộng để cung ứng dịch vụ công ích (trong đó bao gồm các điểm Bưu điện – Văn hóa xã). Hiện nay, VNPost đang triển khai việc rà soát tổng thể để tổ chức lại mạng điểm Bưu điện – Văn hóa xã (trong đó có nội dung nâng cấp, sửa chữa nhằm nâng cao hiệu quả hoạt động của các điểm Bưu điện – Văn hóa xã).
IV. Viễn thông, Internet và Tần số VTĐ:
Câu hỏi 26: Kiến nghị, đề xuất với Bộ TTTT sớm triển khai Thông tư báo cáo nghiệp vụ viễn thông, Thông tư hướng dẫn lập, phê duyệt Quy hoạch hạ tầng kỹ thuật viễn thông thụ động tại địa phương và một số quy định về quản lý giá cước trong lĩnh vực viễn thông. (Bắc Kạn)
Trả lời:
- Về Thông tư quy định báo cáo nghiệp vụ về mạng viễn thông và dịch vụ viễn thông: Hiện nay Bộ TTTT đang tích cực chỉ đạo các đơn vị liên quan khẩn trương hoàn thiện dự thảo Thông tư và dự kiến sẽ ban hành trong năm 2013.
- Về Thông tư hướng dẫn lập, phê duyệt quy hoạch hạ tầng kỹ thuật viễn thông thụ động tại địa phương: Căn cứ quy định tại Điều 61 Luật Viễn thông, Điều 40 Nghị định 25/2011/NĐ-CP, ngày 21/6/2013, Bộ trưởng Bộ TTTT đã ban hành Thông tư số 14/2013/TT-BTTTT về hướng dẫn việc lập, phê duyệt và tổ chức thực hiện quy hoạch hạ tầng kỹ thuật viễn thông thụ động tại địa phương.
Thông tư đã được gửi tới UBND các tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương và có hiệu lực từ ngày 15/8/2013. Ngoài ra, để chủ động nghiên cứu, triển khai các nội dung của thông tư, Sở TTTT có thể truy cập Cổng thông tin điện tử của Bộ để tải và sử dụng bản mềm của Thông tư. Bộ TTTT sẽ phối hợp với các Sở TTTT trong quá trình triển khai thực hiện Thông tư.
- Về công tác quản lý giá cước viễn thông: Kể từ khi Luật Viễn thông, Nghị định số 25/2011/NĐ-CP hướng dẫn Luật Viễn thông được ban hành, Bộ TTTT đã ban hành các văn bản QPPL cấp Bộ để hoàn thiện hành lang pháp lý quản lý giá cước viễn thông, cụ thể như sau:
- Thông tư số 14/2012/TT-BTTTT ngày 12/10/2012 về việc quy định giá cước dịch vụ thông tin di động mặt đất;
- Thông tư số 16/2012/TT-BTTTT ngày 30/10/2012 về việc quy định phương pháp xác định và chế độ báo cáo giá thành dịch vụ viễn thông;
- Thông tư số 18/2012/TT-BTTTT ngày 15/11/2012 quy định về Danh mục doanh nghiệp viễn thông, nhóm doanh nghiệp viễn thông có vị trí thống lĩnh thị trường đối với các dịch vụ viễn thông quan trọng;
- Thông tư số 11/2013/TT-BTTTT ngày 13/5/2013 quy định về Danh mục dịch vụ viễn thông thực hiện báo cáo giá thành thực tế, giá thành kế hoạch.
Hiện tại Bộ TTTT đang tiếp tục nghiên cứu, ban hành các văn bản quy định về doanh thu dịch vụ viễn thông, quy định việc quản lý giá cước viễn thông… .Các thông tư này ra đời sẽ góp phần hoàn thiện hành lang pháp lý quản lý giá cước viễn thông, nhằm đảm bảo doanh nghiệp cạnh tranh lành mạnh phát triển bền vững.
Câu hỏi 27: Đề nghị Bộ TTTT xây dựng cơ chế quản lý, cấp và thu hồi đầu số, không để các doanh nghiệp viễn thông cấp đầu số cho các doanh nghiệp cung cấp dịch vụ nội dung (CSP) như hiện nay. (Hà Nội)
Trả lời: Hiện tại Bộ TTTT đang tiến hành xây dựng dự thảo Thông tư Quy định quản lý kho số viễn thông trong đó quy định cụ thể về cơ chế quản lý, trình tự, thủ tục, các tiêu chí đối với cơ chế cấp, phân bổ, thu hồi, cho thuê v.v… mã số viễn thông nói chung và các số dịch vụ nội dung thông tin sử dụng hình thức nhắn tin SMS nói riêng. Trong dự thảo Thông tư đề xuất đối tượng được cấp số dịch vụ tin nhắn ngắn là các tổ chức, doanh nghiệp cung cấp dịch vụ nội dung (CSP). Ngoài ra Bộ TTTT đang xây dựng dự thảo Thông tư ban hành Quy hoạch kho số viễn thông thay thế cho Quyết định số 52/2006/QĐ-BBCVT ban hành Quy hoạch đánh số điện thoại quốc gia, trong đó có bổ sung nội dung của quy hoạch số dịch vụ tin nhắn ngắn SMS. Trong đó, Bộ TTTT sẽ trực tiếp phân bổ đầu số dịch vụ tin nhắn ngắn SMS cho các doanh nghiệp cung cấp dịch vụ nội dung.
Câu hỏi 28: Nghị định số 77/2012/NĐ-CP ngày 05/10/2012 của Chính phủ sửa đổi, bổ sung một số điều của Nghị định số 90/2008/NĐ-CP ngày 13/8/2008 của Chính phủ về chống thư rác chính thức có hiệu lực từ ngày 01/01/2013. Sở TTTT Hà Nội đã xây dựng Kế hoạch số 309/KH-STTTT để triển khai việc này. Tuy nhiên, để triển khai có hiệu quả Nghị định số 77/2012/NĐ-CP ngày 05/10/2012, Sở TTTT Hà Nội đề nghị Bộ TTTT sớm có hướng dẫn cụ thể hơn về các nội dung sau:
+ Các biện pháp tăng cường khả năng phòng chống, ngăn chặn tin nhắn rác đối với doanh nghiệp viễn thông.
+ Thủ tục cấp mã số quản lý cho các doanh nghiệp cung cấp dịch vụ nội dung qua tin nhắn.
+ Thủ tục cấp tên định danh.
+ Quy định liên quan tới cước tin nhắn quảng cáo.
(Hà Nội)
Trả lời: Hiện nay, Bộ TTTT đang xây dựng Thông tư hướng dẫn Nghị định số 77/2012/NĐ-CP và dự kiến sẽ ban hành trong năm 2013. Các nội dung về quy trình, thủ tục cấp mã số quản lý, tên định danh; các biện pháp tăng cường khả năng phòng chống, ngăn chặn tin nhắn rác đối với doanh nghiệp viễn thông di động; cước tin nhắn quảng cáo cũng đang được Bộ TTTT nghiên cứu để bổ sung vào Dự thảo. Thời gian tới, Bộ có kế hoạch tổ chức chương trình phổ biến, giáo dục pháp luật 2013 trong đó có nội dung hướng dẫn các đơn vị triển khai Nghị định số 77/2012/NĐ-CP.
Câu hỏi 29: Việc quản lý chất lượng dịch vụ của các địa phương gặp nhiều khó khăn do năng lực, trang thiết bị kỹ thuật còn thiếu. Đề nghị Bộ TTTT tăng cường thanh kiểm tra và hướng dẫn, cung cấp thiết bị cho các địa phương trong việc quản lý, kiểm tra chất lượng dịch vụ để bảo vệ tốt quyền lợi của người tiêu dùng. (Hà Tĩnh)
Trả lời: Liên quan đến việc quản lý chất lượng dịch vụ viễn thông, Bộ TTTT đã ban hành các Thông tư số 08/2013/TT-BTTTT ngày 26/3/2013 quy định về quản lý chất lượng dịch vụ viễn thông và Thông tư số 02/2013/TT-BTTTT ngày 22/01/2013 quy định Danh mục dịch vụ viễn thông bắt buộc quản lý chất lượng. Theo đó, đã có các quy định, các yêu cầu, hình thức đối với việc quản lý chất lượng dịch vụ viễn thông; vai trò, trách nhiệm của các cơ quan quản lý nhà nước, các tổ chức, cá nhân cung cấp, sử dụng dịch vụ viễn thông ở Việt Nam. Cục Viễn thông được giao thực hiện quản lý nhà nước về chất lượng dịch vụ trên phạm vi cả nước, các Sở TTTT quản lý trên địa bàn của mình theo phân công. Cụ thể:
- Về báo cáo chất lượng dịch vụ viễn thông: Doanh nghiệp viễn thông, đại lý dịch vụ viễn thông trên địa bàn có trách nhiệm báo cáo Sở TTTT về chất lượng dịch vụ viễn thông khi có yêu cầu; và khi dịch vụ (thuộc Danh mục theo Thông tư 02/2013/TT-BTTTT) có sự cố làm cho việc sử dụng dịch vụ trên địa bàn một hay nhiều tỉnh hoặc trên hướng liên tỉnh, liên mạng, quốc tế không thực hiện được trong thời gian 02 giờ trở lên thì trong thời hạn 03 ngày làm việc, doanh nghiệp có trách nhiệm gửi báo cáo bằng văn bản về nguyên nhân, mức độ ảnh hưởng và việc khắc phục gửi Cục Viễn thông và Sở TTTT nơi xảy ra sự cố.
- Về đo kiểm chất lượng dich vụ viễn thông: Cục Viễn thông ban hành kế hoạch đo kiểm chất lượng đối với các dịch vụ viễn thông (thuộc Danh mục theo Thông tư 02/2013/TT-BTTTT) hoặc quyết định đo kiểm đột xuất (khi cần thiết). Theo đó, Cục Viễn thông yêu cầu các tổ chức đo kiểm đã được Bộ chỉ định tiến hành đo kiểm. Cục Viễn thông phối hợp với Sở TTTT khi đo kiểm trên địa bàn trong trường hợp cần thiết.
- Về việc thanh kiểm tra việc chấp hành các quy định về quản lý chất lượng dịch vụ viễn thông của cơ quan quản lý nhà nước (Mục 1, Chương V, Thông tư số 08/2013/TT-BTTTT): Cục Viễn thông xây dựng và ban hành kế hoạch kiểm tra đối với các doanh nghiệp (tháng 01 hàng năm), theo đó các Sở TTTT xây dựng và ban hành kế hoạch kiểm tra trên địa bàn quản lý (tháng 02 hàng năm). Các nội dung kiểm tra gồm việc chấp hành quy định về công bố, báo cáo, tự kiểm tra, tự giám sát, công khai thông tin, nội dung quản lý khác. Cục Viễn thông kiểm tra các doanh nghiệp cung cấp dịch vụ viễn thông, các Sở TTTT quản lý đối với các chi nhánh hoặc đơn vị trực thuộc của doanh nghiệp trên địa bàn.
Ngoài các nội dung nêu ở trên, các Sở TTTT còn có trách nhiệm phát hiện và phản ánh các tồn tại về chất lượng trên địa bàn; báo cáo và đề xuất Bộ, Cục Viễn thông các biện pháp xử lý.
Đối với việc nâng cao năng lực, thiết bị để đo kiểm chuyên ngành (bao gồm cả đo kiểm chất lượng dịch vụ viễn thông), Bộ TTTT đã và đang thực hiện chủ trương xã hội hóa để tận dụng mọi nguồn lực trong xã hội cho công tác quản lý chất lượng chuyên ngành. Hiện nay, đã có trên 30 phòng đo kiểm có đủ năng lực và được Bộ TTTT chỉ định để đo kiểm tất cả các lĩnh vực quản lý chuyên ngành thông tin và truyền thông. Đồng thời, để đảm bảo quản lý hiệu quả chất lượng dịch vụ viễn thông, Bộ cũng đã đầu tư rất lớn để năng cao năng lực đo kiểm, theo hướng có thể giám sát chất lượng dịch vụ với mục tiêu quản lý ngày càng tốt hơn để đảm bảo quyền lợi của người sử dụng.
Câu hỏi 30: Theo khoản b Điều 5 của Nghị định 51/2011/NĐ-CP ngày 27/6/2011 của Chính phủ về quy định xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực tần số vô tuyến điện có quy định về hành vi không khai báo, không làm thủ tục cấp lại giấy phép sử dụng tần số và thiết bị vô tuyến điện đối với đài vô tuyến điện đặt trên phương tiện nghề cá nhưng lại chưa có chế tài xử phạt đối với phương tiện nghề cá không trang bị thiết bị vô tuyến điện tầm xa khi hoạt động trong vùng biển đã quy định phải có thiết bị vô tuyến điện tầm xa mới được ra khơi. Đề nghị bổ sung nội dung chế tài xử phạt này. (Hải Phòng)
Trả lời: Luật Tần số VTĐ và các văn bản quy phạm pháp luật về tần số VTĐ không quy định các phương tiện nghề cá phải trang bị thiết bị VTĐ tầm xa. Việc quy định trang bị thiết bị VTĐ tầm xa đặt trên phương tiện nghề cá (có thể là một trong những điều kiện bắt buộc đối với các phương tiện nghề cá) không thuộc lĩnh vực quản lý nhà nước của Bộ TTTT. Do quy định quản lý nhà nước về tần số VTĐ không quy định “phương tiện nghề cá phải trang bị thiết bị VTĐ tầm xa khi hoạt động trong vùng biển đã quy định phải có thiết bị VTĐ tầm xa mới được ra khơi” nên không thể quy định chế tài xử phạt đối với hành vi này.
Câu hỏi 31: Điều 42 Nghị định số 25/2011/NĐ-CP quy định “Tổ chức, cá nhân đầu tư xây dựng tòa nhà cao tầng có nhiều chủ sử dụng (chung cư, tòa nhà văn phòng, khách sạn), công trình xây dựng công cộng có trách nhiệm bố trí mặt bằng để doanh nghiệp viễn thông lắp đặt cột ăng ten trên nóc tòa nhà, lắp đặt thiết bị thu, phát sóng trong tòa nhà, trong công trình xây dựng công cộng nếu việc lắp đặt là khả thi về kỹ thuật”. Đề nghị Bộ hướng dẫn cụ thể cụm từ “tòa nhà cao tầng”. (Hải Phòng)
Trả lời: Cụm từ “toà nhà cao tầng” hay “nhà cao tầng” được sử dụng trong Khoản 2 Điều 42 Nghị định 25/2011/NĐ-CP là thuật ngữ thuộc ngành Xây dựng. Việc hướng dẫn cụ thể đối với thuật ngữ này thuộc thẩm quyền của Bộ Xây dựng. Ngày 02/11/2004, Bộ Xây dựng đã ban hành Tiêu chuẩn Xây dựng Việt Nam số TCXDVN: 323:2004 về Nhà ở cao tầng - Tiêu chuẩn thiết kế theo đó “nhà cao tầng là nhà ở căn hộ có chiều cao từ 9 tầng đến 40 tầng”. Tuy nhiên, căn cứ Quyết định số 212/QĐ-BXD ngày 25/02/2013 về việc Huỷ bỏ tiêu chuẩn ngành xây dựng và công văn số 1245/BXD-KHCN ngày 24/6/2013 gửi UBND các tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương hướng dẫn cụ thể về chỉ tiêu kiến trúc áp dụng cho công trình nhà ở cao tầng, hiện tại TCXDVN 323:2004 đã bị huỷ bỏ, Bộ Xây dựng đang tiến hành xây dựng Quy chuẩn mới để thay thế.
Đề nghị Sở TTTT trao đổi, phối hợp làm việc với Sở Xây dựng tại tỉnh, thành phố để có thông tin hướng dẫn cụ thể hơn đối với vấn đề này.
Câu hỏi 32: Bộ cần điều chỉnh, ban hành các văn bản quy phạm pháp luật phù hợp với tình hình phát triển của ngành và thực tế tại địa phương; phân cấp cho Sở TTTT một số nội dung về quản lý nhà nước về cấp giấy chứng nhận kiểm định đài viễn thông và thiết bị vô tuyến điện, chứng nhận và công bố hợp quy với sản phẩm, hàng hóa chuyên ngành công nghệ thông tin và truyền thông theo Thông tư 30/2011/TT-BTTTT.(Hòa Bình)
Trả lời: Bộ TTTT trong quá trình xây dựng, ban hành các văn bản quy phạm pháp luật về quản lý chất lượng đã tính đến tình hình phát triển của ngành và thực tiễn tại các địa phương trong cả nước.
Việc chưa phân cấp về các Sở TTTT một số nội dung quản lý nhà nước về cấp giấy chứng nhận kiểm định đài viễn thông và thiết bị vô tuyến điện, chứng nhận và công bố hợp quy với sản phẩm, hàng hóa chuyên ngành CNTT-TT vì các lý do sau:
Thông tư số 28/2012/TT-BKHCN ngày 12/12/2012 quy định Tổ chức chứng nhận thực hiện hoạt động chứng nhận phù hợp quy chuẩn kỹ thuật là tổ chức đã thực hiện đăng ký lĩnh vực hoạt động chứng nhận; theo quy định tại Thông tư số 08/2009/TT-BKHCN ngày 08/4/2009 của Bộ Khoa học và Công nghệ hướng dẫn về yêu cầu, trình tự, thủ tục đăng ký lĩnh vực hoạt động đánh giá sự phù hợp và Thông tư số 10/2011/TT-BKHCN ngày 30/6/2011 của Bộ Khoa học và Công nghệ sửa đổi, bổ sung một số quy định của Thông tư số 08/2009/TT-BKHCN và được cơ quan có thẩm quyền chỉ định thực hiện hoạt động chứng nhận.
Đối với hoạt động kiểm định và cấp giấy chứng nhận kiểm định, Chính phủ đã có 25 nghị quyết về đơn giản hóa thủ tục hành chính trong các lĩnh vực kinh tế - xã hội, trong đó yêu cầu tổ chức kiểm định viễn thông thực hiện đo kiểm và sau đó cấp giấy chứng nhận kiểm định (phí đo kiểm và lệ phí cấp giấy chứng nhận kiểm định tính chung). Thông tư số 16/2011/TT-BTTTT ngày 30/6/2011 của Bộ TTTT quy định về kiểm định thiết bị viễn thông và đài vô tuyến điện đã quy định tổ chức kiểm định là đơn vị sự nghiệp hoạt động dịch vụ kỹ thuật thuộc cơ quan quản lý nhà nước được Bộ TTTT giao nhiệm vụ thực hiện công tác kiểm định. Việc phân cấp rộng rãi công tác này cho các đơn vị ngoài Cục Viễn thông là rất hạn chế do:
- Đơn vị nào tham gia kiểm định phải đầu tư về con người được đào tạo chuyên môn về kiểm định, phải đầu tư trang thiết bị đo kiểm (do đó dẫn đến đầu tư dàn trải, lãng phí nếu phân cấp rộng rãi).
- Phí kiểm định và lệ phí cấp giấy kiểm định không thu được do đặc thù Bộ Tài chính chỉ giao Cục Viễn thông thu các khoản phí này.
- Định hướng kiểm định của Bộ về lâu dài là tăng cường hậu kiểm, hạn chế tiền kiểm, do đó khối lượng kiểm định sẽ giảm bớt.
Đối với hoạt động chứng nhận hợp quy và công bố hợp quy với sản phẩm, hàng hóa chuyên ngành TTTT, hoạt động đo kiểm đã được xã hội hóa (Bộ TTTT chỉ định các phòng đo kiểm có đủ năng lực), nhưng việc chứng nhận và cấp giấy chứng nhận hợp quy cũng đòi hỏi chuyên gia đánh giá được đào tạo và cấp chứng chỉ và cần được tổ chức theo hướng giảm thủ tục hành chính cho doanh nghiệp. Thông tư số 28/2012/TT-BKHCN của Bộ Khoa học và Công nghệ quy định về công bố hợp chuẩn, công bố hợp quy và phương thức đánh giá sự phù hợp với tiêu chuẩn, quy chuẩn kỹ thuật cũng đã sửa đổi không quy định đăng ký công bố hợp quy về các Sở quản lý chuyên ngành mà đăng ký về cơ quan do Bộ quản lý chuyên ngành chỉ định. Đây cũng là định hướng tập trung chức năng quản lý về các cơ quan có năng lực thay vì phân cấp rộng rãi sẽ tăng thủ tục hành chính và đầu tư lãng phí.
Câu hỏi 33: Chỉ đạo các đơn vị trực thuộc Bộ TTTT tăng cường hơn nữa việc trao đổi thông tin trong công tác quản lý với Sở TTTT. Hàng năm tổ chức các hội nghị trao đổi kinh nghiệm về quản lý nhà nước về viễn thông giữa các Sở TTTT. (Hòa Bình)
Trả lời: Việc tăng cường trao đổi thông tin trong công tác quản lý nhà nước về thông tin và truyền thông với các Sở đã được Bộ TTTT hết sức quan tâm, chú trọng, thể hiện ở việc Bộ thường xuyên tổ chức giao ban công tác quản lý nhà nước trực tuyến hoặc tập trung định kỳ 6 tháng, tổng kết năm hoặc các hội nghị giao ban theo lĩnh vực, các đợt tập huấn với các Sở TTTT để tăng cường trao đổi thông tin, chia sẻ và cung cấp thông tin; kịp thời tháo gỡ khó khăn, vướng mắc cho các Sở.
Thời gian qua, theo chỉ đạo của Bộ TTTT, các đơn vị thuộc Bộ TTTT đã phối hợp định kỳ tổ chức hội nghị với các Sở TTTT để trao đổi thông tin quản lý nhà nước lĩnh vực thông tin và truyền thông cũng như phổ biến, giới thiệu các văn bản QPPL về lĩnh vực thông tin và truyền thông đã ban hành. Trong thời gian tới, Bộ TTTT sẽ tiếp tục chỉ đạo các đơn vị tăng cường trao đổi thông tin với các Sở để nâng cao hiệu quả phối hợp trong công tác thực thi nhiệm vụ quản lý nhà nước được giao.
Câu hỏi 34: Đề nghị Bộ TTTT xem xét miễn phí cấp phép, duy trì tần số VTĐ cho các đài truyền thanh không dây tại các thôn bản (lý do: tại các vùng núi, vùng sâu, vùng xa như tỉnh Lào Cai, việc phổ cập các loa phát thanh là đặc biệt cần thiết không những tuyên truyền các chủ trương, chính sách của nhà nước mà còn phổ biến, cung cấp các thông tin cho người dân để nắm bắt. Kinh phí hoạt động còn hạn chế nên việc xin cấp phép, duy trì tần số còn gặp nhiều khó khăn). (Lào Cai)
Trả lời: Việc miễn phí cấp phép, duy trì tần số VTĐ cho các đài truyền thanh không dây tại các thôn bản đã được Bộ TTTT quan tâm nghiên cứu và bổ sung nội dung trên vào dự thảo Thông tưvề phí, lệ phí tần số vô tuyến điện gửi Bộ Tài chính xem xét, ban hành. Ngày 15/8/2013, Bộ Tài chính đã ban hành Thông tư số 112/2013/TT-BTC quy định mức thu, chế độ thu, nộp và quản lý sử dụng lệ phí cấp giấy phép sử dụng tần số vô tuyến điện và phí sử dụng tần số vô tuyến điện. Trong đó đã qui định các đài truyền thanh không dây thuộc quản lý của phường, xã vào diện đối tượng được miễn phí sử dụng tần số vô tuyến điện. Đề nghị Sở nghiên cứu và triển khai thực hiện Thông tư trên.
Câu hỏi 35: Đề nghị Bộ nghiên cứu, xem xét ban hành quy chuẩn Việt Nam đối với Internet 3G, cáp quang để các đơn vị lấy căn cứ thực hiện. (Lào Cai)
Trả lời:
- Về quy chuẩn kỹ thuật quốc gia đối với Internet 3G:
Trong năm 2012, tại thời điểm 3 năm sau khi doanh nghiệp được cấp phép thiết lập mạng và cung cấp dịch vụ, Bộ TTTT đã thực hiện kiểm tra việc triển khai dịch vụ Internet 3G theo hai chỉ tiêu chính là tốc độ truy nhập dịch vụ Internet di động và tỷ lệ thành công cuộc gọi theo các nội dung cam kết cấp giấy phép thiết lập mạng và cung cấp dịch vụ 3G của doanh nghiệp.
Hiện tại Bộ TTTT chưa ban hành quy chuẩn kỹ thuật quốc gia về chất lượng dịch vụ Internet 3G, tuy nhiên đã giao Cục Viễn thông chủ trì nghiên cứu xây dựng quy chuẩn kỹ thuật quốc gia này, dự kiến sẽ hoàn chỉnh dự thảo quy chuẩn, thực hiện các thủ tục lấy ý kiến góp ý, thẩm định và trình ban hành trong năm 2013. Đồng thời Bộ TTTT cũng đang hoàn chỉnh một số dự thảo quy chuẩn kỹ thuật quốc gia về chất lượng dịch vụ qua 3G để ban hành như dịch vụ truyền tải (bearer services), dịch vụ video streaming…
- Về quy chuẩn kỹ thuật đối với cáp quang:
Do cáp quang nằm trong hệ thống thiết bị mạng của doanh nghiệp nên Bộ TTTT định hướng không ban hành quy chuẩn kỹ thuật quốc gia đối với đối tượng này, mà xây dựng các tiêu chuẩn quốc gia (TCVN) và đề nghị Bộ Khoa học và Công nghệ công bố (các TCVN được áp dụng trên cơ sở tự nguyện).
Thời gian qua, Bộ TTTT đã đề nghị Bộ Khoa học và Công nghệ công bố các TCVN về cáp quang như TCVN 8696:2011 Mạng viễn thông-cáp vào nhà thuê bao-yêu cầu kỹ thuật; TCVN 8665:2011 Sợi quang dùng cho mạng viễn thông-yêu cầu kỹ thuật chung; TCVN 8691:2011 Hệ thống thông tin cáp sợi quang PDH - yêu cầu kỹ thuật. Đây là những tiêu chuẩn cơ bản áp dụng cho cáp quang và hệ thống thông tin quang.
Câu hỏi 36: Chương trình viễn thông công ích đã được Chính phủ phê duyệt giai đoạn 2011-2015, tuy nhiên đến nay chương trình này vẫn chưa được triển khai. Đề nghị Bộ sơm có hướng dẫn triển khai. (Lâm Đồng)
Câu hỏi 37: Sớm ban hành Chương trình Viễn thông công ích giai đoạn 2013-2015 và các văn bản hướng dẫn thực hiện. (Nghệ An)
Câu hỏi 38: Đề nghị Bộ triển khai thực hiện chương trình cung cấp dịch vụ VTCI từ nay đến 2020. (Quảng Trị)
Trả lời các câu 36, 37 và 38: Chương trình cung cấp dịch vụ viễn thông công ích giai đoạn 2011-2015 được Thủ tướng Chính phủ phê duyệt tại Quyết định số 1643/QĐ-TTg ngày 21/9/2011. Tuy nhiên, giai đoạn 2011 – 2015, một số chính sách mới của Đảng và Nhà nước được triển khai như “Chương trình mục tiêu quốc gia đưa thông tin về cơ sở, miền núi, vùng sâu, vùng xa, biên giới, hải đảo”; “Chương trình xây dựng nông thôn mới”; Nghị quyết 13-NQ/TW về “Xây dựng hệ thống kết cấu hạ tầng đồng bộ nhằm đưa nước ta cơ bản trở thành nước công nghiệp theo hướng hiện đại vào năm 2020”, trong đó xây dựng hạ tầng thông tin – truyền thông được xác định là một bộ phận quan trọng của phát triển kinh tế - xã hội.
Do vậy, để phát huy vai trò và nguồn lực của Quỹ, đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ trong giai đoạn mới, cần phải điều chỉnh một số nội dung trong Chương trình cung cấp dịch vụ viễn thông công ích giai đoạn 2011 – 2015. Bộ đã đề nghị Thủ tướng Chính phủ cho phép được lùi thời gian thực hiện để bổ sung, sửa đổi nội dung cho phù hợp với tình hình nhiệm vụ mới và được Thủ tướng Chính phủ đồng ý tại văn bản số 1347/TTg-KTN ngày 07/9/2012. Hiện nay, Bộ TTTT đang chủ trì nghiên cứu, sửa đổi bổ sung Quyết định số 1643/QĐ-TTg để trình Thủ tướng Chính phủ. Chương trình viễn thông công ích giai đoạn tiếp theo sẽ được triển khai thực hiện khi được Thủ tướng Chính phủ phê duyệt.
Câu hỏi 39: Sở đề xuất báo cáo số liệu hạ tầng mạng lưới và hoạt động kinh doanh dịch vụ như sau:
- Đối với hạ tầng mạng lưới: Số liệu cần nắm đến trung tâm xã gồm: tên xã có cáp đồng, cáp quang, các tuyến truyền dẫn nội tỉnh, liên tỉnh, số lượng trạm BTS trên địa bàn xã(trạm 2G, trạm 3G, trạm consite). Số liệu báo cáo theo từng huyện để thuận tiện trong công tác quản lý, hoạch định các chính sách về viễn thông.
- Đối với hoạt động kinh doanh dịch vụ: Đề nghị báo cáo đến cấp xã về số lượng của từng loại dịch vụ cụ thể như sau: Số thuê bao điện thoại cố định có dây và không dây (trong đó tách trả trước và trả sau); Thuê bao điện thoại di động (trả trước và trả sau); Tổng số thuê bao Internet bao gồm: Thuê bao Internet cá nhân, hộ gia đình, cơ quan, đại lý, 3G, điểm BĐ-VHX, điểm truy nhập khác, điện thoại di động sử dụng Internet, Leased line, IPTV, FTTH, CATV; Số đại lý điểm ủy quyền được đăng ký thông tin thuê bao di động trả trước.(Quảng Trị)
Trả lời: Năm 2012, Bộ đã chỉ đạo Cục Viễn thông triển khai xây dựng Thông tư quy định báo cáo nghiệp vụ về mạng viễn thông và dịch vụ viễn thông. Dự thảo Thông tư đã được nhanh chóng xây dựng và xin ý kiến các doanh nghiệp, các Sở TTTT; ý kiến nhân dân trên trang thông tin điện tử của Bộ vào đầu năm 2013. Hiện nay dự thảo đang được hoàn thiện và dự kiến ban hành trong năm 2013.
Nội dung của dự thảo Thông tư có đầy đủ các quy định về báo cáo số liệu hạ tầng mạng lưới và hoạt động kinh doanh dịch vụ của các doanh nghiệp viễn thông theo từng tháng, 6 tháng, 12 tháng. Các số liệu yêu cầu báo cáo được thiết kế theo hướng đáp ứng được yêu cầu số liệu chuyên sâu phục vụ công tác hoạch định chính sách, điều tiết thị trường và các nhiệm vụ thực thi quản lý nhà nước về viễn thông; từ các số liệu báo cáo này có thể tổng hợp, chiết xuất các thông tin phục vụ công bố thống kê và các mục đích thống kê khác theo yêu cầu của pháp luật thống kê; hài hòa với hệ thống chỉ tiêu quản lý viễn thông do Liên minh viễn thông quốc tế (ITU) ban hành. Cục Viễn thông có trách nhiệm cung cấp các số liệu báo cáo cho Sở TTTT các tỉnh, các cơ quan, đơn vị có liên quan đến hoạt động quản lý nhà nước về viễn thông.
Câu hỏi 40: Hiện nay chưa có văn bản của Trung ương quy định rõ ràng về công trình quan trọng về an ninh quốc gia về lĩnh vực bưu chính, viễn thông. Cụ thể là về hạ tầng bưu chính viễn thông chưa có danh mục công trình quan trọng liên quan đến an ninh quốc gia được Chính phủ quy định theo Nghị định 126/2008/NĐ-CP ngày 11/12/2008 Quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành một số điều của Pháp lệnh Bảo vệ công trình quan trọng liên quan đến an ninh quốc gia. Vì vậy, đề nghị Bộ TTTT xây dựng danh mục công trình quan trọng liên quan đến an ninh quốc gia để trình Chính phủ ban hành. (Quảng Trị)
Trả lời: Mạng lưới bưu chính, viễn thông là công cụ thông tin liên lạc quan trọng bảo đảm phục vụ sự lãnh đạo, chỉ đạo của Đảng và Nhà nước, chính quyền các cấp từ trung ương đến địa phương, tạo sự ổn định trật tự xã hội và đảm bảo an ninh quốc phòng, góp phần đẩy mạnh sự phát triển kinh tế xã hội của đất nước. Bộ TTTT xác định công tác bảo đảm an toàn mạng và đảm bảo an ninh thông tin là một yêu cầu hết sức quan trọng. Để bảo đảm an toàn mạng lưới và an ninh thông tin trên mạng viễn thông, Bộ TTTT đã xây dựng và trình Thủ tướng Chính phủ ban hành Quyết định số 45/2012/QĐ-TTg ngày 23/10/2012 về tiêu chí xác định các công trình viễn thông quan trọng liên quan đến an ninh quốc gia.
Hiện nay, căn cứ qui định của pháp luật về bảo vệ công trình quan trọng liên quan đến an ninh quốc gia, đặc biệt căn cứ qui định về tiêu chí xác định công trình viễn thông quan trọng liên quan đến an ninh quốc gia tại Quyết định số 45/2012/QĐ-TTg ngày 23/10/2012 của Thủ tướng Chính phủ, Bộ TTTT đang chỉ đạo, hướng dẫn các doanh nghiệp viễn thông đề xuất danh mục cụ thể các công trình viễn thông của doanh nghiệp trình các cơ quan nhà nước có thẩm quyền xem xét đưa vào danh mục công trình quan trọng liên quan đến an ninh quốc gia theo qui định. Theo đó, từng công trình viễn thông cụ thể do doanh nghiệp đề xuất đưa vào danh mục công trình viễn thông quan trọng liên quan đến an ninh quốc gia đều phải đáp ứng những tiêu chí qui định tại Điều 1, Quyết định số 45/2012/QĐ-TTg và phải được các cơ quan Nhà nước có thẩm quyền xem xét đưa vào danh mục công trình quan trọng liên quan đến an ninh quốc gia theo đúng qui định về trình tự, thủ tục thẩm định và thẩm quyền quyết định danh mục quan trọng liên quan đến an ninh quốc gia.
Câu hỏi 41: Thực hiện Thông tư số 23/2011/TT-BTTTT ngày 11/8/2011 Quy định về việc quản lý, vận hành, sử dụng và bảo đảm an toàn thông tin trên Mạng truyền số liệu chuyên dùng của các cơ quan Đảng, Nhà nước. Công văn số 944/BTTTT-ƯDCNTT ngày 19/4/2012 của Bộ TTTTvề việc hướng dẫn đăng ký dịch vụ Mạng TSLCD của các cơ quan Đảng và Nhà nước. Sở TTTT Quảng Trị đã tham mưu cho UBND tỉnh chỉ đạo, hướng dẫn đăng ký dịch vụ Mạng TSLCD trong các cơ quan Đảng, Nhà nước trên địa bàn tỉnh. Tuy nhiên, theo Thông tư 06/2010/TT-BTTTT ngày 11/02/2010 về việc ban hành giá cước sử dụng mạng truyền số liệu chuyên dùng phục vụ các cơ quan Đảng và Nhà nước; trong đó quy định xét tốc độ chung là 2Mbps giá cước 541.000đ, nếu tăng dung lượng lên thì giá cước rất cao. Do đó, một số đơn vị không dùng Mạng chuyên dùng này vì giá cước quá cao, mà chuyển sang dùng Mạng chuyên dùng với tốc độ 2M thì không đảm bảo về dung lượng. Vì vậy, đề nghị Bộ xem lại mức giá cước hợp lý. Bên cạnh đó phải phối hợp với Trung ương Đảng ban hành quy định bắt buộc cơ quan Đảng, Nhà nước phải sử dụng Mạng TSLCD để tránh lãng phí ngân sách đầu tư và đảm bảo an toàn bảo mật cho hoạt động truyền số liệu. Hơn nữa, hiện nay chưa có văn bản chính thức từ phía Chính phủ quy định về sử dụng mạng chuyên dùng vì vậy việc triển khai còn gặp nhiều khó khăn. (Quảng Trị)
Trả lời: Về mục đích sử dụng Mạng TSLCD của các cơ quan Đảng, Nhà nước (Mạng chuyên dùng): Là mạng dùng riêng kết nối các cơ quan Đảng, Nhà nước đảm bảo an toàn bảo mật cao phục vụ chỉ đạo, điều hành của các ngành, các cấp. Các dịch vụ, ứng dụng, hệ thống thông tin có thể chỉ được triển khai trong nội bộ mạng chuyên dùng mà không kết nối ra mạng ngoài Internet. Vì vậy, sự so sánh (nếu có) Mạng chuyên dùng với kết nối Internet của các doanh nghiệp hoặc các mạng khác là không phù hợp.
Về giá cước kết nối sử dụng Mạng chuyên dùng: Giá cước sử dụng Mạng chuyên dùng theo Thông tư số 06/2010/TT-BTTTT ngày 11/02/2010 là giá cước được tính trên cơ sở chi phí duy trì và vận hành Mạng chuyên dùng và thấp hơn nhiều so với giá cước thuê đường truyền dùng riêng của doanh nghiệp (Ví dụ: giá cước 2Mbps của Mạng chuyên dùng: 514.000đ so sánh với đường truyền 2Mbps của các doanh nghiệp: giá cước truy nhập mạng Metronet của VNPT là 1,7 triệu đồng, giá cước dịch vụ thuê riêng nội tỉnh, liên tỉnh của Viettel từ 4,7 đến 8,9 triệu đồng, nếu đường truyền leased-line 2Mbps ra internet thì giá thành rất cao từ vài triệu đến hàng chục triệu đồng).
Về sử dụng Mạng chuyên dùng, Bộ TTTT đã có văn bản số 2336/BTTTT-ƯDCNTT ngày 21/7/2008 hướng dẫn kết nối, sử dụng Mạng TSLCD cũng đã hướng dẫn cụ thể việc kết nối, triển khai sử dụng mạng chuyên dùng tại các Bộ, ngành, địa phương. Trong thời gian tới, Bộ TTTT sẽ tiếp tục nghiên cứu, hướng dẫn các đơn vị tăng cường khai thác, sử dụng đảm bảo tận dụng tối đa hạ tầng của Mạng chuyên dùng.
Câu hỏi 42: Đề xuất với Bộ TTTT làm việc với các Bộ, ngành liên quan về việc xem xét sửa đổi, bổ sung một số quy định về việc bồi thường các công trình viễn thông đi dọc các tuyến đường giao thông khi phải di rời tạo điều kiện thuận lợi, giải quyết các khó khăn, vướng mắc cho doanh nghiệp. (Thanh Hóa)
Trả lời: Việc bồi thường các công trình viễn thông đi dọc các tuyến đường giao thông khi phải di rời được quy định tại Thông tư liên tịch số 07/2000/TTLT-GTVT-BĐ ngày 11/12/2000 về việc hướng dẫn xây dựng công trình thông tin bưu điện trong phạm vi bảo vệ của công trình giao thông đường bộ. Theo khoản 2.9 thông tư này: “Kinh phí di dời, khắc phục công trình thông tin bưu điện do chủ đầu tư công trình thông tin bưu điện hoặc đơn vị quản lý công trình thông tin bưu điện chịu trách nhiệm”.
Trong thời gian qua, khi tốc độ xây dựng mới, cải tạo, chỉnh trang hạ tầng đô thị diễn ra ngày càng nhiều, dẫn tới các công trình viễn thông đã được xây dựng phải di dời nhiều, chi phí di dời các công trình viễn thông tăng dần qua các năm.
Căn cứ tình hình thực tế và các quy định của Luật Viễn thông và các văn bản quy phạm pháp luật có liên quan, trong thời gian tới Bộ TTTT sẽ làm việc với Bộ Giao thông vận tải để sửa đổi, bổ sung Thông tư liên tịch số 07/2000/TTLT-GTVT-BĐ tạo điều kiện thuận lợi, giải quyết các khó khăn, vướng mắc cho doanh nghiệp viễn thông khi phải di dời công trình.
V. Công nghệ thông tin:
Câu hỏi 43: Kiến nghị, đề xuất với Bộ TTTT ban hành các văn bản quản lí nhà nước về CNTT đồng bộ, kịp thời để triển khai thực hiện hiệu quả. (Bắc Kạn)
Trả lời: Nhằm từng bước hoàn thiện hành lang pháp lý trong lĩnh vực TTTT, ngay từ đầu năm, Bộ đã ban hành Chương trình xây dựng văn bản quy phạm pháp luật năm 2013 bao gồm 35 văn bản quy phạm pháp luật, trong đó có 32 thông tư và 03 thông tư liên tịch. Trong 6 tháng đầu năm, Bộ đã ban hành 13 thông tư, 01 Thông tư liên tịch. Riêng về lĩnh vực CNTT, trong 6 tháng đầu năm, Bộ đã ban hành các văn bản sau:
- Thông tư số 03/2013/TT-BTTTT ngày 22/01/2013 về Quy định áp dụng tiêu chuẩn, quy chuẩn kỹ thuật đối với trung tâm dữ liệu; Thông tư số 06/2013/TT-BTTTT ngày 07/3/2013 về Quy định chế độ báo cáo định kỳ về tình hình ứng dụng CNTT của cơ quan nhà nước; Thông tư số 09/2013/TT-BTTTT ngày 08/4/2013 của về Ban hành danh mục sản phẩm phần mềm và phần cứng, điện tử;
- Quyết định số 147/QĐ-BTTTT ngày 20/02/2013 Ban hành bộ tiêu chí đánh giá mức độ thực hiện thành công Chương trình quốc gia về ứng dụng CNTT trong hoạt động của cơ quan nhà nước giai đoạn 2011-2015;
- Chỉ thị số 08/CT-BTTTT ngày 08/02/2013 về việc tăng cường sử dụng văn bản điện tử trong hoạt động của cơ quan nhà nước.
Dự kiến trong năm 2013, Bộ sẽ ban hành Thông tư sửa đổi, bổ sung Thông tư số 41/2009/TT-BTTTT về ban hành Danh mục phần mềm mã nguồn mở đáp ứng yêu cầu sử dụng trong cơ quan nhà nước và Thông tư sửa đổi Thông tư số 42/2009/TT-BTTTT quy định chi tiết về ưu tiên đầu tư, mua sắm các sản phẩm CNTT sản xuất trong nước bằng nguồn vốn ngân sách nhà nước hoặc vốn có nguồn gốc từ ngân sách nhà nước. Bộ cũng đang xây dựng văn bản hướng dẫn các Bộ, ngành, địa phương xây dựng Kế hoạch ứng dụng CNTT năm 2014 đồng bộ theo định hướng chung của quốc gia, cũng như phù hợp với điều kiện, nhu cầu thực tế của địa phương.
Ngoài ra, Bộ TTTT đang xây dựng Thông tư quy định về triển khai đồng bộ các Dự án ứng dụng CNTT chuyên ngành từ Trung ương tới địa phương. Thông tư nhằm đảm bảo sự kết nối, sẵn sàng chia sẻ thông tin, dữ liệu giữa các ngành liên quan ở Trung ương và địa phương và sự liên thông giữa các hệ thống thông tin chuyên ngành với các hệ thống thông tin quản lý hành chính tại các địa phương. Đồng thời hướng tới mục tiêu đảm bảo hiệu quả đầu tư, tránh sự đầu tư trùng lặp, lãng phí.
Câu hỏi 44: Kiến nghị, đề xuất với Bộ TTTT thống nhất thời gian và hình thức đánh giá chỉ số ICT Index phù hợp, không chồng chéo để tạo điều kiện thuận lợi cho địa phương. (Bắc Kạn)
Trả lời: Từ năm 2006 đến nay, báo cáo Vietnam ICT Index hàng năm được thực hiện và công bố trong Quý III, do Vụ Công nghệ thông tin phối hợp với Hội Tin học Việt Nam thực hiện. Trong các buổi công bố đều đã nêu rõ thời gian thu thập số liệu và thời gian công bố hàng năm. Hệ thống chỉ tiêu của các báo cáo khá rộng bao gồm tất cả các nội dung CNTT của một địa phương như hạ tầng, ứng dụng, nhân lực, sản xuất kinh doanh và môi trường chính sách (hay gọi là ICT Index) trong khi báo cáo về công tác ứng dụng CNTT tập trung vào mảng ứng dụng CNTT trong cơ quan nhà nước, hay còn gọi là E-government Index.
Để thống nhất việc xây dựng báo cáo ICT Index cùng các báo cáo khác của Bộ (Báo cáo ứng dụng CNTT), trong thời gian tới Bộ sẽ tổ chức thu thập số liệu 1 lần đồng thời tăng cường rà soát nhằm đưa ra kết quả thống nhất, không chồng chéo, trùng lặp.
Câu hỏi 45: Đề nghị Bộ thành lập đơn vị giải đáp và hướng dẫn sử dụng mạng chuyên dùng hiện nay để tránh việc đầu tư không thống nhất, chồng chéo ở địa phương khi triển khai mạng tin học diện rộng của Tỉnh ủy, UBND tỉnh. (Bắc Giang)
Trả lời: Ngày 19/4/2012, Bộ TTTT đã có văn bản số 944/BTTTT-ƯDCNTT về việc hướng dẫn đăng ký dịch vụ Mạng TSLCD của các cơ quan Đảng, Nhà nước nêu rõ: Viễn thông tỉnh là điểm đăng ký dịch vụ của Mạng TSLCD tại địa phương có trách nhiệm tư vấn, khai thác, sử dụng Mạng TSLCD tại địa phương. Trong trường hợp khác thì Bưu điện Trung ương có trách nhiệm tiếp nhận, tư vấn, khai thác, sử dụng Mạng chuyên dùng.
Tại văn bản 2336/BTTTT-ƯDCNTT ngày 21/7/2008 hướng dẫn kết nối, sử dụng Mạng TSLCD cũng đã hướng dẫn cụ thể việc kết nối, triển khai sử dụng Mạng chuyên dùng tại các Bộ, ngành, địa phương đảm bảo tận dụng tối đa hạ tầng của Mạng chuyên dùng (Mô hình triển khai mạng WAN tại các tỉnh, thành phố phải tận dụng triệt để trên cơ sở các điểm kết nối của mạng TSLCD đã được kết nối). Ngoài ra, nếu có các vấn đề phát sinh khác, các Bộ, ngành, địa phương có thể phản hồi trực tiếp về Bộ TTTT để được hướng dẫn cụ thể.
Câu hỏi 46: Tăng cường chỉ đạo nhằm thúc đẩy ứng dụng CNTT của các địa phương, chỉ đạo triển khai chứng thực số, sử dụng Mạng TSLCD trong các cơ quan. Sớm đề xuất triển khai xây dựng kiến trúc dữ liệu Quốc gia: Vì nếu không xây dựng kiến trúc, các hệ thống dùng chung được triển khai ở các cấp, các ngành hiện nay rất khó khăn và tốn kém khi tích hợp dữ liệu trong toàn quốc hoặc toàn tỉnh. (Bắc Giang)
Trả lời:
Về việc tăng cường chỉ đạo nhằm thúc đẩy ứng dụng CNTT của các địa phương:
- Về công tác lập kế hoạch và hướng dẫn lập kế hoạch: Bộ TTTT đã tham mưu Thủ tướng Chính phủ ban hành Quyết định số 1605/QĐ-TTg ngày 27/8/2010 phê duyệt Chương trình quốc gia về ứng dụng CNTT trong hoạt động của cơ quan nhà nước giai đoạn 2011-2015 làm căn cứ định hướng chung cho các địa phương triển khai công tác ứng dụng CNTT của mình. Tại Báo cáo 2 năm thực hiện Quyết định số 1605/QĐ-TTg, Bộ TTTT đã trình Thủ tướng Chính phủ xem xét, ưu tiên triển khai các dự án tạo nền tảng phát triển Chính phủ điện tử. Tiếp theo Quyết định số 1605/QĐ-TTg, Bộ TTTT đã ban hành các văn bản hướng dẫn các địa phương xây dựng kế hoạch về ứng dụng CNTT hàng năm, cụ thể: Công văn số 1804/BTTTT-ƯDCNTT ngày 20/6/2011 về việc hướng dẫn xây dựng Kế hoạch ứng dụng CNTT năm 2012; công văn số 1750/BTTTT-ƯDCNTT ngày 09/7/2012 về việc hướng dẫn xây dựng Kế hoạch phát triển và ứng dụng CNTT năm 2013 và giai đoạn 2013-2015. Tuy nhiên, các địa phương cũng cần chủ động triển khai các ứng dụng CNTT phục vụ hoạt động trong các cơ quan nhà nước theo nhu cầu công việc thực tế, thúc đẩy cải cách hành chính, nâng cao năng suất, hiệu quả hoạt động.
- Về hành lang pháp lý: Bộ TTTT đã ban hành, phối hợp ban hành một số thông tư nhằm tạo hành lang pháp lý thúc đẩy triển khai ứng dụng CNTT trong toàn quốc như: Thông tư số 06/2013/TT-BTTTT ngày 07/3/2013 quy định chế độ báo cáo định kỳ về tình hình ứng dụng CNTT của cơ quan nhà nước; Thông tư liên tịch số 19/2012/TTLT-BTC-BKH&ĐT-BTTTT của Bộ Tài chính, Bộ Kế hoạch và Đầu tư, Bộ TTTT về việc hướng dẫn quản lý và sử dụng kinh phí thực hiện Chương trình quốc gia về ứng dụng CNTT trong hoạt động của cơ quan Nhà nước.
- Về công tác xây dựng các văn bản hướng dẫn triển khai ứng dụng CNTT: Bộ TTTT đã ban hành các văn bản hướng dẫn, hỗ trợ các địa phương trong triển khai công tác ứng dụng CNTT (chi tiết tại địa chỉ: aita.gov.vn), cụ thể là:
+ Công văn số 512/BTTTT-ƯDCNTT ngày 20/02/2013 về việc Hướng dẫn kỹ thuật liên thông giữa các hệ thống quản lý văn bản và điều hành trong cơ quan nhà nước;
+ Công văn số 3601/BTTTT-ƯDCNTT ngày 25/12/2012 hướng dẫn về việc xây dựng lộ trình cung cấp dịch vụ công trực tuyến theo quy định của Nghị định 43/2011/NĐ-CP;
+ Công văn số 2352/BTTTT-ƯDCNTT ngày 09/5/2012 hướng dẫn lập hồ sơ mô tả các yêu cầu kỹ thuật cần đáp ứng của phần mềm nội bộ, phục vụ giai đoạn chuẩn bị đầu tư dự án ứng dụng CNTT;
+ Công văn số 270/BTTTT-ƯDCNTT ngày 06/02/2012 về việc hướng dẫn mô hình thành phần chính quyền điện tử cấp tỉnh.
Bên cạnh đó, Bộ TTTT đã tham mưu Thủ tướng Chính phủ ban hành Chỉ thị 34/2008/CT-TTg ngày 03/12/2008 về việc tăng cường sử dụng hệ thống thư điện tử trong hoạt động của cơ quan nhà nước, Chỉ thị số 15/CT-TTg ngày 22/5/2012 của Thủ tướng Chính phủ về việc tăng cường sử dụng văn bản điện tử trong hoạt động của cơ quan nhà nước.
Về việc triển khai chứng thực số: Theo quy định tại Nghị định số 26/2007/NĐ-CP ngày 15/02/2007 của Chính phủ quy định chi tiết thi hành luật giao dịch điện tử về chữ ký số và dịch vụ chứng thực chữ ký số, Ban Cơ yếu Chính phủ thành lập và duy trì hoạt động của tổ chức cung cấp dịch vụ chứng thực chữ ký số chuyên dùng phục vụ các cơ quan thuộc hệ thống chính trị trong đó bao gồm các cơ quan nhà nước thuộc địa phương. Bộ TTTT sẽ phối hợp với Ban cơ yếu Chính phủ và các cơ quan liên quan trong việc thúc đẩy ứng dụng chứng thực số và dịch vụ chứng thực chữ ký số theo yêu cầu thực tế tại các địa phương.
Về việc sử dụng Mạng TSLCD trong các cơ quan Đảng và Nhà nước: Bộ TTTT đã ban hành Thông tư số 23/2011/TT-BTTTT ngày 11/8/2011 quy định quản lý, vận hành, sử dụng và bảo đảm an toàn thông tin trên Mạng TSLCD của cơ quan Đảng, Nhà nước.
Về kiến trúc dữ liệu quốc gia: Việc xây dựng kiến trúc dữ liệu quốc gia phải xuất phát từ các yêu cầu về nghiệp vụ tương ứng, do đó, khó có thể xây dựng một cách độc lập với nhiệm vụ cải cách quy trình nghiệp vụ, xây dựng kiến trúc nghiệp vụ. Bên cạnh đó, kiến trúc dữ liệu quốc gia là nội dung phức tạp, đòi hỏi nhiều về mức độ sẵn sàng về nhu cầu, về nguồn lực, thời gian, sự ủng hộ của lãnh đạo cấp cao mới đảm bảo xây dựng được. Để đảm bảo sự kết nối, sẵn sàng chia sẻ thông tin, dữ liệu giữa các ngành liên quan ở Trung ương và địa phương, sự liên thông giữa các hệ thống thông tin chuyên ngành với các hệ thống thông tin quản lý hành chính tại các địa phương, Bộ đang nghiên cứu xây dựng Thông tư quy định về triển khai đồng bộ các dự án ứng dụng CNTT chuyên ngành từ Trung ương tới địa phương để ban hành trong thời gian tới.
Câu hỏi 47: Đề nghị Bộ đẩy nhanh tiến độ thực hiện đề án khu CNTT tập trung tại Bắc Ninh. Xây dựng Bắc Ninh trở thành tỉnh mạnh về CNTT và truyền thông của khu vực. (Bắc Ninh)
Trả lời: Hiện nay Đề án thành lập khu CNTT tập trung của Bộ TTTT đã được xây dựng và trình Thủ tướng Chính phủ. Tuy nhiên, theo ý kiến chỉ đạo của Thủ tướng Chính phủ, Đề án sẽ được xem xét sau khi Nghị định và Quy hoạch tổng thể phát triển khu CNTT tập trung được ban hành. Theo đó, Bộ TTTT đã khẩn trương hoàn thiện các văn bản trên và dự kiến trong năm 2013 các văn bản này sẽ được ban hành. Bộ TTTT cũng đã lên kế hoạch dự kiến công việc và kinh phí cho việc triển khai xây dựng khu CNTT này trong năm 2014.
Câu hỏi 48: Khu CNTT tập trung tỉnh Hà Tĩnh đã được phê duyệt, hiện nay đang trong quá trình xúc tiến đầu tư. Đề nghị Bộ TTTT quan tâm hỗ trợ tỉnh trong quá trình triển khai xây dựng. (Hà Tĩnh)
Trả lời: Phát triển khu CNTT tập trung là một trong những định hướng quan trọng của Đảng và Nhà nước trong việc phát triển kinh tế - xã hội nói chung và ngành CNTT nói riêng. Trên cơ sở đó, với vai trò quản lý nhà nước về CNTT, Bộ TTTT sẽ ủng hộ các địa phương có lợi thế, tiềm năng phát triển về CNTT.
Hiện nay Đề án thành lập khu CNTT tập trung của Bộ TTTT đã được xây dựng và trình Thủ tướng Chính phủ. Tuy nhiên, theo ý kiến chỉ đạo của Thủ tướng Chính phủ, Đề án sẽ được xem xét sau khi Nghị định và Quy hoạch tổng thể phát triển khu CNTT tập trung được ban hành. Theo đó, Bộ TTTT đã khẩn trương hoàn thiện các văn bản trên và dự kiến trong năm 2013 các văn bản này sẽ được ban hành. Đối với việc phát triển khu CNTT tập trung tại Hà Tĩnh, đề nghị địa phương làm việc với các đơn vị chức năng của Bộ để qua đó đánh giá được hiệu quả việc đầu tư xây dựng khu CNTT tập trung tại địa phương.
Câu hỏi 49: Đề nghị Chính phủ, Bộ TTTT hỗ trợ Hà Tĩnh trong việc xây dựng Chính phủ điện tử cấp tỉnh và xây dựng hạ tầng Khu CNTT tập trung và thực hiện Dự án số hóa chương trình truyền hình và phủ sóng truyền hình qua vệ tinh. (Hà Tĩnh)
Trả lời:
- Xây dựng Chính phủ điện tử cấp tỉnh:
+Về các nội dung liên quan đến kỹ thuật:Bộ TTTT đã ban hành văn bản số 270/BTTTT-ƯDCNTT ngày 06/02/2012 về việc hướng dẫn Mô hình thành phần chính quyền điện tử cấp tỉnh và các văn bản hướng dẫn khác. Bộ sẵn sàng hỗ trợ, hướng dẫn, góp ý kiến trong quá trình Hà Tĩnh triển khai xây dựng Chính phủ điện tử cấp tỉnh.
+Về nguồn vốn triển khai: Theo quy định hiện hành, nguồn vốn ứng dụng CNTT tại địa phương do địa phương bố trí. Trong thời gian qua, Bộ TTTT cũng đã có văn bản kiến nghị với Thủ tướng Chính phủ, làm việc với Bộ Kế hoạch và Đầu tư, Bộ Tài chính có cơ chế hỗ trợ các địa phương khó khăn về kinh phí để phát triển ứng dụng CNTT.
+Về phương thức triển khai: Áp dụng theo quy định tại Nghị định số 102/2009/NĐ-CP và các văn bản hướng dẫn Nghị định 102/2009/NĐ-CP.
- Xây dựng hạ tầng Khu CNTT tập trung: Đã được trả lời tại câu hỏi 47 của Sở.
- Thực hiện Đề án số hóa chương trình truyền hình và phủ sóng truyền hình qua vệ tinh:
Theo quy định tại Quyết định số 2451/QĐ-TTg ngày 27/12/2011 của Thủ tướng Chính phủ, việc kết thúc phát sóng truyền hình tương tự mặt đất tại các tỉnh, thành phố để chuyển sang phát sóng truyền hình số mặt đất khi 95% số hộ gia đình tại các tỉnh, thành phố đó có máy thu hình thu được các kênh chương trình phục vụ nhiệm vụ chính trị, thông tin tuyên truyền thiết yếu bằng những phương thức khác nhau bao gồm: truyền hình số mặt đất, truyền hình cáp, truyền hình qua vệ tinh, truyền hình qua internet.
Tỉnh Hà Tĩnh thuộc Nhóm III, chuyển hoàn toàn sang truyền hình số vào 31/12/2018. Cũng theo Đề án số hóa, Nhà nước có chương trình hỗ trợ phát triển hạ tầng, truyền dẫn phát sóng truyền hình số mặt đất đối với địa bàn miền núi, vùng sâu, vùng xa; ngoài ra còn có chương trình hỗ trợ đầu thu số cho các hộ nghèo, hộ cận nghèo và các hộ gia đình chính sách.
Câu hỏi 50: Bộ có chủ trương hướng dẫn hoạt động Cổng thông tin điện tử; khung tiêu chí chấm điểm Sở, ban ngành, UBND cấp huyện ứng dụng CNTT trong cải cách thủ tục hành chính phù hợp hơn so với Quyết định của Bộ Nội vụ ban hành. (Hải Dương)
Câu hỏi 51: Nghị định số 43/2011/NĐ-CP ngày 13/6/2011 của Chính phủ Quy định về việc cung cấp thông tin và dịch vụ công trực tuyến trên trang thông tin điện tử hoặc cổng thông tin điện tử của cơ quan nhà nước có hiệu lực từ 01/10/2011, đề nghị Bộ có hướng dẫn về quy chế hoạt động của Ban Biên tập. (Lâm Đồng)
Trả lời câu 50 và 51:
Về hướng dẫn hoạt động Cổng thông tin điện tử: Thực hiện Nghị định số 43/2011/NĐ-CP, Bộ TTTT và Bộ Nội vụ đang phối hợp xây dựng văn bản hướng dẫn về tổ chức, chức năng, nhiệm vụ của Ban biên tập trang thông tin điện tử hoặc cổng thông tin điện tử của cơ quan nhà nước. Dự kiến văn bản sẽ được ban hành trong năm 2013.
Về hướng dẫn khung tiêu chí: Ngày 07/3/2013, Bộ TTTT đã ban hành Thông tư số 06/2013/TT-BTTTT quy định chế độ báo cáo định kỳ về tình hình ứng dụng CNTT của cơ quan nhà nước, theo đó, Sở TTTT sẽ hướng dẫn các cơ quan chuyên môn thuộc UBND tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương và UBND các quận, huyện, thị xã, thành phố thuộc tỉnh (Sở, ban, ngành, UBND cấp huyện) cung cấp số liệu phục vụ xây dựng báo cáo tình hình ứng dụng CNTT của tỉnh. Trên cơ sở Thông tư số 06/2013/TT-BTTT và số liệu báo cáo của Sở, ban, ngành, UBND cấp huyện, Sở TTTT có thể sử dụng để đánh giá mức độ ứng dụng CNTT của từng đơn vị.
Để các báo cáo đánh giá phù hợp với thực tế, hàng năm, Bộ TTTT sẽ nghiên cứu, rà soát các văn bản, quy định về ứng dụng CNTT và các văn bản liên quan để cập nhật, xây dựng bổ sung các hướng dẫn về công tác báo cáo, kiểm tra, đánh giá về mức độ ứng dụng CNTT khi cần thiết.
Câu hỏi 52: Đề nghị Bộ TTTT sớm trình dự thảo Luật về đảm bảo an toàn an ninh thông tin để điều chỉnh các hành vi vi phạm đang ngày càng phổ biến như: lấy cắp dữ liệu, thông tin của các tổ chức/cơ quan nhà nước; tấn công mạng; phát tán thư rác; tạo lập và phát tán các mã độc, phần mềm độc hại… (Hải Phòng)
Trả lời: Dự thảo Luật An toàn thông tin đang trong giai đoạn được Bộ TTTT lấy ý kiến rộng rãi trước khi trình Chính phủ, hiện đã được đăng trên Cổng thông tin điện tử của Chính phủ, Quốc hội và Bộ TTTT. Bên cạnh đó Bộ TTTT cũng đã gửi bản dự thảo tới các bộ ngành, địa phương, hiện tại đã nhận được một số ý kiến phản hồi. Bộ TTTT đang nghiên cứu các ý kiến góp ý để hoàn thiện dự thảo để có thể trình Chính phủ vào Quí I năm 2014.
Câu hỏi 53: Đề nghị Bộ TTTT xem xét xây dựng Quy chế phối hợp các đơn vị chuyên trách của Bộ, Ban cơ yếu chính phủ, Cục An ninh truyền thông thuộc Bộ Công an, các cơ quan có liên quan với các tỉnh/thành phố trong việc quản lý, vận hành, kiểm soát các hệ thống thông tin chung của quốc gia để việc triển khai các nhiệm vụ an toàn an ninh thông tin tại các tỉnh/thành phố được chặt chẽ, toàn diện. (Hải Phòng)
Trả lời:
- Chính phủ đã ban hành Nghị định 64/2007/NĐ-CP ngày 10/4/2007 về việc Ứng dụng công nghệ thông tin trong hoạt động của các cơ quan nhà nước có quy định rõ trách nhiệm của các Bộ ngành, các tổ chức cá nhân trong hoạt động đảm bảo an toàn thông tin.
- Bộ TTTT đã ban hành Thông tư 27/2011/TT-BTTTT ngày 04/10/2011 quy định về việc điều phối các hoạt động ứng cứu sự cố mạng Internet Việt Nam. Trung tâm Ứng cứu khẩn cấp máy tính Việt Nam (VNCERT) là Cơ quan điều phối các hoạt động ứng cứu sự cố trong mạng lưới với thành viên bắt buộc là tất cả các Trung tâm Thông tin các bộ ngành, các Sở TTTT các tỉnh thành phố, các ISP và VNNIC.
- Bộ TTTT cũng đang chủ trì xây dựng dự thảo Luật An toàn thông tin với mục tiêu xây dựng một hành lang pháp lý đầy đủ để có thể thúc đẩy, phát triển công tác đảm bảo an toàn thông tin và xử lý các hành vi vi phạm pháp luật về an toàn thông tin.
Trong thời gian qua, các cơ quan chức năng của Bộ TTTT và Bộ Công An, Bộ Quốc phòng, Ban Cơ yếu Chính phủ vẫn thường xuyên phối hợp để triển khai các hoạt động đảm bảo an toàn thông tin. Nếu các Sở có vướng mắc, cần đưa ra các trường hợp cụ thể để Bộ TTTT có hướng dẫn cũng như lên các kế hoạch làm việc với các Bộ liên quan để giải quyết các vướng mắc này.
Câu hỏi 54: Đề nghị Bộ tham mưu với Chính phủ có cơ chế chính sách ưu tiên đầu tư cho lĩnh vực công nghệ thông tin, nhằm thúc đẩy việc ứng dụng và phát triển công nghệ thông tin. (Hòa Bình)
Trả lời: Đảng và Chính phủ đã có chủ trương, chính sách thúc đẩy việc ứng dụng và phát triển CNTT, điều này đã được khẳng định trong các văn bản như:
- Chỉ thị số 58-CT/TW về đẩy mạnh ứng dụng và phát triển công nghệ thông tin phục vụ sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa; Luật Công nghệ thông tin Số 67/2006/QH11 ngày 29/06/2006. Các quy định của Luật CNTT tạo hành lang pháp lý cơ bản để thúc đẩy các hoạt động ứng dụng CNTT trong mọi mặt của đời sống kinh tế - xã hội.
- Nghị định số 71/2007/NĐ-CP ngày 03/05/2007 của Chính phủ quy định chi tiết và hướng dẫn thực hiện một số điều của Luật CNTT về công nghiệp công nghệ thông tin; Nghị định 64/2007/NĐ-CP ngày 10/4/2007 của Chính phủ về ứng dụng CNTT trong hoạt động của các cơ quan nhà nước; Nghị định số 124/2008/NĐ-CP ngày 11/12/2008 quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành một số điều của Luật thuế thu nhập doanh nghiệp có quy định ưu đãi về thuế thu nhập doanh nghiệp đối với doanh nghiệp thành lập mới từ dự án đầu tư thuộc các lĩnh vực sản xuất sản phẩm phần mềm. Quyết định 123/2004/TT-BTC của Bộ Tài chính hướng dẫn thực hiện ưu đãi về thuế đối với doanh nghiệp phần mềm.
- Quyết định số 1605/QĐ-TTg ngày 27/8/2010 phê duyệt Chương trình quốc gia về ứng dụng CNTT trong hoạt động của cơ quan Nhà nước giai đoạn 2011-2015; Quyết định số 1755/QĐ-TTg ngày 22/9/2010 Phê duyệt Ðề án đưa Việt Nam sớm trở thành nước mạnh về công nghệ thông tin và truyền thông; Quyết định số 51/2007/QĐ-TTg, Quyết định số 56/2007/QĐ-TTg, Quyết định số 75/2007/QĐ-TTg; Quyết định số 169/2006/QĐ-TTg ngày 17/7/2006 quy định về việc đầu tư, mua sắm các sản phẩm CNTT của các cơ quan, tổ chức sử dụng nguồn vốn ngân sách nhà nước nhằm thúc đẩy sản xuất trong nước, góp phần phát triển CNTT Việt Nam và nhiều văn bản khác với các cơ chế, chính sách cụ thể để thúc đẩy phát triển công nghiệp CNTT nói chung cũng như các doanh nghiệp CNTT nói riêng.
- Hiện nay, Bộ TTTT đang xây dựng dự thảo trình Chính phủ các chính sách ưu đãi để tiếp tục đẩy mạnh ứng dụng và phát triển CNTT Việt Nam như Dự thảo Nghị định của Chính phủ hướng dẫn một số điều của Luật CNTT về dịch vụ CNTT, trong đó có chính sách ưu đãi cho doanh nghiệp cung cấp dịch vụ công nghệ thông tin; Chương trình phát triển công nghiệp CNTT đến năm 2015 và định hướng đến năm 2020.... Trong dự thảo của các đề án, chương trình, Bộ đã đề xuất một số nội dung nhằm nâng cao năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp CNTT, hình thành doanh nghiệp mạnh, Nhà nước ưu tiên đầu tư vốn vào các doanh nghiệp CNTT.
Câu hỏi 55: Ban hành các văn bản quy định cụ thể thời gian báo cáo đối với các báo cáo có số lượng chỉ tiêu thống kê nhiều, thực hiện định kỳ hàng năm như: báo cáo mức độ sẵn sàng ứng dụng CNTT, đánh giá tình hình ứng dụng công nghệ thông tin của cơ quan nhà nước,... để cấp tỉnh có thời gian tổ chức thực hiện đảm bảo số liệu báo cáo được thu thập chính xác, có chất lượng. (Khánh Hòa)
Trả lời: Bộ TTTT đã ban hành Thông tư số 06/2013/TT-BTTTT ngày 07/3/2013 Quy định chế độ báo cáo định kỳ về tình hình ứng dụng công nghệ thông tin của cơ quan nhà nước.Về thời hạn báo cáo, tại Điều 3, Thông tư đã quy định cụ thể như sau:
Điều 3. Kỳ hạn báo cáo và thời hạn gửi báo cáo
1. Kỳ hạn báo cáo là 01 năm, tính từ ngày 01 tháng 01 đến ngày 31 tháng 12 của năm báo cáo.
2. Các cơ quan nhà nước thuộc đối tượng áp dụng tại Thông tư này gửi báo cáo về Bộ TTTT trước ngày 01 tháng 02 hàng năm.
Câu hỏi 56: Tăng cường hướng dẫn kỹ thuật cho các địa phương trong việc đảm bảo an toàn thông tin số như: Khuyến nghị lựa chọn phần mềm quét, dò tìm và phát hiện lỗ hổng bảo mật trên các hệ thống mạng, phần mềm mạng, kỹ thuật phòng tránh. (Lào Cai)
Trả lời: Thời gian qua, Bộ TTTT đã ban hành một số văn bản hướng dẫn kỹ thuật nhằm tăng cường công tác đảm bảo an toàn thông tin trong các cơ quan nhà nước, cụ thể là công văn số 50/VNCERT-NCPT ngày 19/3/2012 về việc thông báo và hướng dẫn khắc phục lỗ hổng bảo mật nghiêm trọng của hệ điều hành; công văn số 97/VNCERT-NCPT ngày 08/5/2012 về việc thông báo và hướng dẫn khắc phục lỗ hổng bảo mật nghiêm trọng trên máy chủ Web; công văn số 172/VNCERT-KTHT ngày 01/7/2013 về việc hướng dẫn phát hiện thư điện tử giả mạo.
Hiện nay, Bộ đang tiếp tục nghiên cứu để ban hành các văn bản hướng dẫn khác như hướng dẫn sử dụng thư điện tử an toàn, hướng dẫn sử dụng máy tính an toàn, và tăng cường công tác cảnh báo các sự cố về an toàn thông tin. Tiếp thu kiến nghị của Sở TTTT Lào Cai, Bộ sẽ nghiên cứu để đưa ra các hướng dẫn trong thời gian tới.
Câu hỏi 57: Sở TTTT Lâm Đồng có 2 đơn vị sự nghiệp trực thuộc: Trung tâm Quản lý Cổng Thông tin điện tử (TTĐT) Lâm Đồng và Trung tâm Công nghệ Thông tin và Truyền thông là đơn vị sự nghiệp có thu (Áp dụng chế độ tài chính theo quy định tại Nghị định số 43/2006/NĐ-CP ngày 26/4/2006 của Chính phủ “Quy định quyền tự chủ, tự chịu trách nhiệm về thực hiện nhiệm vụ, tổ chức bộ máy biên chế và tài chính đối với các đơn vị sự nghiệp công lập”). Hiện nay, chưa có văn bản hướng dẫn về mô hình hoạt động và xếp hạng các đơn vị sự nghiệp công lập thuộc ngành Thông tin và Truyền thông nên Sở Tài chính vẫn đang xếp 02 Trung tâm thuộc loại hình đơn vị sự nghiệp khoa học công nghệ khi phân bố ngân sách nhà nước hàng năm. Đề nghị Bộ có văn bản hướng dẫn về mô hình hoạt động và xếp hạng các đơn vị sự nghiệp công lập thuộc ngành Thông tin và Truyền thông. Đặc biệt, hiện nhiều tỉnh đã thành lập Trung tâm Quản lý Cổng TTĐT, đề nghị Bộ có hướng dẫn về mô hình hoạt động của Trung tâm Quản lý Cổng TTĐT cấp tỉnh. (Lâm Đồng)
Trả lời: Trung tâm CNTT-TT, Trung tâm Quản lý Cổng TTĐT thuộc Sở TTTT là đơn vị sự nghiệp có thu, hoạt động theo cơ chế của Nghị định số 43/2006/NĐ-CP. Trung tâm hoạt động trong ngành CNTT, viễn thông là những ngành khoa học công nghệ cao nhưng Trung tâm không phải là đơn vị sự nghiệp khoa học công nghệ.
Việc xếp hạng các đơn vị sự nghiệp hoạt động trong lĩnh vực bưu chính, viễn thông, công nghệ thông tin được quy định tại Quyết định số 181/2005/QĐ-TTg của Thủ tướng Chính phủ. Theo đó, việc xếp hạng các đơn vị sự nghiệp ở các tỉnh, thành phố sẽ do UBND cấp tỉnh xem xét, quyết định. Trong khi chờ Bộ có văn bản hướng dẫn về việc xếp hạng đơn vị sự nghiệp, các Sở TTTT chủ động phối hợp với Sở Nội vụ căn cứ vào điều kiện thực tế và các tiêu chí xếp hạng của các đơn vị sự nghiệp khác để báo cáo UBND xem xét, quyết định.
Câu hỏi 58: Đề nghị Bộ TTTT quan tâm có chính sách ưu đãi đối với cán bộ làm công tác chuyên trách về công nghệ thông tin tại các đơn vị. (Nam Định)
Trả lời: Chính sách ưu đãi đối với cán bộ làm công tác chuyên trách về công nghệ thông tin tại các đơn vị là vấn đề nóng đã được thảo luận trên nhiều diễn đàn, hội nghị, hội thảo từ khá lâu. Hầu hết các Bộ, ngành, địa phương đều thống nhất về việc cần sớm ban hành chính sách này để hạn chế tình trạng “chảy máu chất xám” diễn ra phổ biến lâu nay. Trước đây, Bộ TTTT cũng đã nỗ lực nghiên cứu xây dựng các cơ chế, chính sách ưu đãi cho cán bộ CNTT, tuy nhiên vẫn còn khá nhiều khó khăn vướng mắc chưa có lời giải hợp lý. Chẳng hạn như việc cần xác định đúng đối tượng nào sẽ được hưởng chính sách ưu đãi này. Có ý kiến đề xuất nên hướng tới các cán bộ chuyên trách CNTT (mỗi đơn vị địa phương có nhiều người làm CNTT nhưng chỉ có 1 người có quyết định giao nhiệm vụ chuyên trách), song cũng có ý kiến cho rằng nên mở rộng ưu đãi cho tất cả các đối tượng cán bộ, công chức đang làm việc trong đơn vị chuyên trách về CNTT của các bộ, ngành...
Hiện nay, Bộ TTTT đang phối hợp với các Bộ liên quan nghiên cứu phương án xây dựng hệ thống chức danh về CNTT. Trong đó có quy định cụ thể về các tiêu chuẩn chuyên môn, nghiệp vụ, năng lực, trình độ của từng chức danh. Đồng thời, hệ thống chức danh CNTT cũng quy định chi tiết về chức năng, nhiệm vụ cũng như chế độ đãi ngộ đối với người đảm nhận các chức danh này.
Trước mắt, Bộ TTTT đề nghị các địa phương chủ động nghiên cứu ban hành chính sách đãi ngộ cán bộ chuyên trách CNTT phù hợp với điều kiện đặc thù riêng của địa phương theo tinh thần Nghị định số 64/2007/NĐ-CP ngày 10/4/2007 của Chính phủ về Ứng dụng công nghệ thông tin trong hoạt động của cơ quan nhà nước (Mục 3 Phát triển và sử dụng nguồn nhân lực công nghệ thông tin).
Câu hỏi 59: Xây dựng và triển khai phần mềm dùng chung như Thư điện tử, Quản lý văn bản và điều hành; đặc biệt phần mềm dùng chung trong việc tiếp nhận và trả kết quả theo cơ chế một cửa theo chỉ đạo của Chính phủ tại Thông báo số 415/TB-VPCP ngày 20/12/2012. (Nam Định)
Trả lời: Đến thời điểm này, thuật ngữ hay khái niệm “phần mềm dùng chung” chưa được định nghĩa một cách chính thức vì nó phụ thuộc vào một số yếu tố cơ bản như:
- Yêu cầu của người sử dụng: Có chung quy trình khai thác, vận hành và bảo trì.
- Yêu cầu chức năng, tính năng kỹ thuật: Có chung quy trình phát triển phần mềm, công nghệ và quy trình đảm bảo chất lượng.
- Yêu cầu về tài chính: Có chung quy trình quản lý dự án đầu tư cho một loại sản phẩm trí tuệ.
Do đó, các sản phẩm phần mềm phục vụ ứng dụng CNTT trong hoạt động của cơ quan nhà nước đang chịu tác động của 3 “cơ chế” khác nhau: (1) môi trường ứng dụng, (2) môi trường phát triển và (3) môi trường/cơ chế tài chính, nên “sản phẩm” phần mềm được phát triển rất khó đóng gói được để chuyển giao như các hàng hóa phổ biến. Chất lượng sản phẩm phụ thuộc vào chất lượng trong quá trình phát triển phần mềm và chất lượng trong quá trình sử dụng. Tuy nhiên, quá trình sử dụng thường bắt đầu ngay từ đầu, song hành cùng quá trình phát triển, đây là một mâu thuẫn rất lớn, một khoảng cách giữa 3 “mặt bằng” trên. Theo đó, bằng cách hiểu thông thường, khi chúng ta thực hiện theo cách tuần tự là kết thúc quá trình phát triển rồi đến quá trình sử dụng thì hầu như các ứng dụng có “tuổi đời” rất ngắn, mặc dù sản phẩm phần mềm vẫn còn đó.
Để giải quyết được vấn đề này, phương pháp tiếp cận hiện tại có 2 cách:
- Dựa trên các “sản phẩm” phần mềm tương đối phổ biến như Thư điện tử, Quản lý văn bản và điều hành, Một cửa điện tử trên thị trường và đặc biệt là một kho kinh nghiệm triển khai bao gồm tư vấn phân tích, thiết kế; tích hợp giải pháp; khai thác, vận hành; và bảo trì là cơ sở, góp phần quan trọng nâng cao chất lượng ứng dụng. Để một sản phẩm phần mềm trở thành phần mềm dùng chung (tức là nói đến môi trường ứng dụng) thì bên cạnh chuyển giao sản phẩm phần mềm, còn phải chuyển giao cả kho kinh nghiệm.
- Theo thực tiễn triển khai, các trường hợp thành công thường có một đặc điểm chung là chuyển giao sản phẩm phần mềm kèm đội ngũ phát triển như một kho kinh nghiệm “sống”.
a) Từ phân tích trên cho thấy, câu hỏi về xây dựng phần mềm dùng chung trong điều kiện của chúng ta hiện nay yêu cầu cả phần mềm Thư điện tử, Quản lý văn bản có chất lượng và một kho kinh nghiệm triển khai ứng dụng Thư điện tử, Quản lý văn bản và điều hành.
b) Đối với phần mềm tiếp nhận và trả kết quả theo cơ chế một cửa thì theo mục 2 tại Thông báo số 415/TB-VPCP ngày 20/12/2012 về triển khai nhân rộng cơ chế một cửa, một cửa liên thông hiện đại trong thời gian tới cũng cần phải xem xét thêm:
- Điểm (a) yêu cầu Bộ Nội vụ, Bộ Tư pháp và VPCP cần làm rõ khái niệm cơ chế một cửa, một cửa liên thông hiện đại.
- Điểm (d) yêu cầu Bộ TTTT, Bộ Nội vụ xây dựng phần mềm dùng chung trong việc tiếp nhận và trả kết quả thực hiện thủ tục hành chính tại Bộ phận tiếp nhận thủ tục hành chính thuộc Văn phòng UBND – HĐND cấp huyện và chuyển giao cho các địa phương trong năm 2013 để thực hiện.
Đây là chủ trương đúng hướng, trước mắt cần phải làm 03 việc:
- Làm rõ khái niệm cơ chế một cửa, một cửa liên thông hiện đại để giúp các doanh nghiệp hiểu rõ hơn “nhu cầu” cần phục vụ.
- Lựa chọn các sản phẩm phần mềm có chất lượng.
- Xây dựng và phổ biến một kho kinh nghiệm hay một tổ chức chuyên trách tiếp nhận ngay từ giai đoạn phát triển để phục vụ, hỗ trợ quá trình triển khai.
c) Thực hiện Quyết định số 112/QĐ-TTg ngày 20/01/2012 của Thủ tướng Chính phủ về việc bổ sung dự toán chi ngân sách năm 2011 cho Bộ TTTT nhằm xây dựng một số phần mềm nguồn mở để chuyển giao sử dụng và nhân rộng cho các địa phương trong cả nước, Bộ TTTT và Sở TTTT các địa phương thụ hưởng đã lựa chọn và phối hợp với các nhà thầu triển khai xây dựng xong và bàn giao cho các địa phương thụ hưởng 07 sản phẩm phần mềm nguồn mở trên máy chủ (phiên bản 1.01) theo đúng yêu cầu mà các địa phương thụ hưởng đặt ra cũng như phù hợp với các yêu cầu kỹ thuật cơ bản theo các văn bản hướng dẫn của Bộ TTTT, bao gồm:
- Phần mềm một cửa điện tử nguồn mở cho các quận, huyện.
- Phần mềm một cửa điện tử nguồn mở cho các sở, ngành.
- Phần mềm quản lý văn bản và điều hành nguồn mở cho các sở, ngành.
- Phần mềm quản lý văn bản và điều hành nguồn mở cho các quận, huyện.
- Phần mềm thư điện tử đa cấp nguồn mở.
- Phần mềm thư điện tử cấp tỉnh nguồn mở.
- Phần mềm cổng thông tin điện tử nguồn mở.
Để có cơ sở khuyến cáo sử dụng rộng rãi các sản phẩm phần mềm nguồn mở này, Bộ đã tổ chức xin ý kiến rộng rãi của cộng đồng, các cơ quan, tổ chức liên quan trên trang thông tin điện tử của Bộ và đề nghị các địa phương thụ hưởng tích cực triển khai cài đặt sử dụng các phần mềm này tại địa phương mình.
Câu hỏi 60: Xem xét để đưa Khu công nghệ thông tin của tỉnh Nghệ An vào Quy hoạch khu công nghiệp công nghiệp thông tin tập trung của cả nước và được hưởng chế độ đặc thù của khu công nghệ cao, được hỗ trợ đầu tư hạ tầng kỹ thuật trong khu công nghệ thông tin, tạo điều kiện cho các doanh nghiệp lớn về công nghệ thông tin của nước ngoài đầu tư vào Nghệ An. (Nghệ An)
Trả lời: Hiện nay Bộ TTTT đã trình Thủ tướng Chính phủ dự thảo Quyết định phê duyệt quy hoạch tổng thể phát triển khu CNTT tập trung. Tuy nhiên, theo ý kiến chỉ đạo của Thủ tướng Chính phủ quy hoạch này sẽ được xem xét thông qua sau khi Nghị định quy định về Khu CNTT tập trung được ban hành (dự kiến trong năm 2013). Theo đó, sau khi Nghị định được ban hành Bộ TTTT sẽ tiếp tục hoàn thiện và trình lại Thủ tướng Chính phủ Quy hoạch tổng thể phát triển khu CNTT tập trung.
Do vậy, để phù hợp với tình hình thực tế, trong thời gian tới Bộ TTTT sẽ tiến hành rà soát và đánh giá tình hình phát triển tại các địa phương để xây dựng lại Quy hoạch này.
Câu hỏi 61: Hỗ trợ thêm trang thiết bị thuộc Dự án World Bank để xây dựng Trung tâm dữ liệu điện tử của tỉnh. (Quảng Bình)
Trả lời: Thông qua Dự án phát triển CNTT-TT tại Việt Nam, Bộ TTTT đã tiến hành khảo sát thực tế cơ sở hạ tầng CNTT-TT và nhu cầu của 12 tỉnh trong đó có Quảng Bình và nhận thấy Hệ thống trung tâm dự liệu của Quảng Bình đặt tại Văn phòng UBND tỉnh được trang bị từ những năm 2000 (đề án 112) thiếu về số lượng, yếu về cấu hình. Không có các hệ thống bảo mật nên không đảm bảo an toàn an ninh mạng. Không thể sử dụng để triển khai ứng dụng công tác quản lý cũng như các dịch vụ công. Căn cứ yêu cầu tại công văn số 374/STTTT ngày 05/11/2009 của Sở TTTT Quảng Bình với các nội dung cơ bản sau:
- Đầu tư xây dựng trung tâm tích hợp dữ liệu của tỉnh (đặt tại Sở TTTT) nhằm đảm bảo triển khai các ứng dụng CNTT của tỉnh.
- Hỗ trợ nâng cấp mạng máy tính nội bộ (LAN) cho một số Sở, ban, ngành, địa phương cấp tỉnh. Trang bị máy tính.
Được sự cho phép của Thủ tướng Chính phủ, trong khuôn khổ Dự án phát triển CNTT-TT tại Việt Nam, Bộ TTTT đã tiến hành đầu tư nâng cấp cơ sở hạ tầng CNTT-TT cho 12 tỉnh trong đó có tỉnh Quảng Bình.
Trung tâm dữ liệu của tỉnh Quảng Bình đã được trang bị thêm 11 máy chủ: Hệ thống máy chủ cơ sở dữ liệu (database sever: 3), hệ thống máy chủ ứng dụng (Application sever: 8), hệ thống bảo mật (fiwall/VPN), hệ thống backup, các hệ thống thiết bị mạng như: main router, switch.
Ngoài ra đã nâng cấp cải tạo phòng máy chủ như: Hệ thống mạng cáp cấp nguồn, hệ thống kiểm soát vào/ra, máy phát điện, UPS, điều hoà nhiệt độ; nâng cấp một số mạng LAN, trang bị thêm một số máy tính.
Với số thiết bị được trang bị trên chỉ đáp ứng được một phần nhu cầu của tỉnh, Bộ ghi nhận yêu cầu của Quảng Bình, sẽ tiếp tục làm việc với các cơ quan liên quan như: Bộ Kế hoạch và Đầu tư, Bộ Tài chính... để có thể tăng thêm nguồn vốn cho dự án World Bank cũng như một số dự án khác, có điều kiện đầu tư nâng cấp cơ sở hạ tầng CNTT-TT cho các địa phương.
Câu hỏi 62: Bộ TTTT quan tâm đến vấn đề phát triển công nghiệp công nghệ thông tin tại Quảng Ngãi, tạo động lực cho sự phát triển Khu kinh tế Dung Quất – khu kinh tế lớn nhất cả nước; đồng thời là sự khởi tạo chuỗi khu vực công nghiệp công nghệ thông tin một cách đồng bộ với sự phát triển của vùng kinh tế trọng điểm miền Trung. (Quảng Ngãi)
Trả lời: Hiện nay, Bộ TTTT đang xây dựng dự thảo Chương trình quốc gia phát triển công nghiệp CNTT. Nếu Chương trình được Thủ tướng Chính phủ phê duyệt sẽ là cơ sở để Bộ TTTT chủ trì, phối hợp với các Bộ, ngành và các địa phương triển khai các nội dung thuộc Chương trình.
Đối với khu vực miền Trung, đặc biệt là tỉnh Quảng Ngãi, Bộ sẽ phối hợp với tỉnh để tập trung phát triển một số lĩnh vực mà tỉnh có thế mạnh phù hợp với hiện trạng phát triển công nghiệp CNTT. Đồng thời, trong các chương trình, đề án thuộc thẩm quyền của Bộ phê duyệt trong vùng kinh tế trọng điểm khu vực miền Trung sẽ tập trung ưu tiên phát triển công nghiệp phần cứng - điện tử, lĩnh vực mà các tỉnh miền Trung có thế mạnh.
Câu hỏi 63: Đề nghị Bộ ưu tiên đầu tư các dự án phát triển cơ sở hạ tầng CNTT cho các tỉnh biên giới, miền núi đặc biệt khó khăn. (Lai Châu)
Câu hỏi 64: Tiếp tục dành ưu đãi các nguồn vốn đầu tư về CNTT cho tỉnh Hà Giang, đặc biệt là các chương trình mục tiêu quốc gia xây dựng cơ sở hạ tầng và đào tạo nâng cao chất lượng nguồn nhân lực CNTT. (Hà Giang)
Câu hỏi 65: Đề nghị Chính phủ có cơ chế đặc thù hỗ trợ cho các tỉnh khó khăn như tỉnh Yên Bái trong ứng dụng và phát triển CNTT. (Yên Bái)
Câu hỏi 66: Do tỉnh Hòa Bình còn nhiều khó khăn vì vậy đề nghị Bộ TTTT quan tâm hỗ trợ kinh phí cho việc triển khai các dự án ƯDCNTT trong quản lý nhà nước. Đề nghị Bộ tham mưu với Chính phủ có cơ chế chính sách ưu tiên đầu tư cho lĩnh vực CNTT nhằm thúc đẩy việc ứng dụng và phát triển CNTT. (Hòa Bình)
Câu hỏi 67: Trong những năm qua, tỉnh đã có nhiều nỗ lực trong việc phát triển CNTT trên địa bàn tỉnh, tuy nhiên so với mặt bằng chung của cả nước ứng dụng CNTT tại tỉnh vẫn còn nhiều hạn chế. Sở TTTT kính đề nghị Bộ TTTT quan tâm, tạo điều kiện bố trí nguồn kinh phí của Trung ương cho ƯDCNTT trên địa bàn tỉnh. (Bà Rịa – Vũng Tàu)
Câu hỏi 68: Kiến nghị Bộ TTTT giải quyết cho tỉnh Bạc Liêu một số dự án về thông tin và truyền thông, đặc biệt là một số dự án ứng dụng CNTT trong giai đoạn 2013-2015. (Bạc Liêu)
Câu hỏi 69: Xem xét hỗ trợ kinh phí ứng dụng CNTT cho các tỉnh; đặc biệt là đối với các tỉnh có điều kiện kinh tế - xã hội khó khăn như Sóc Trăng để giúp tỉnh thực hiện được các mục tiêu theo định hướng chung về ứng dụng CNTT của Chính phủ và Bộ. (Sóc Trăng)
Trả lời các câu hỏi từ 63 đến 69: Trong thời gian qua, một số chính sách phát triển thông tin và truyền thông ở các khu vực vùng sâu, vùng xa, biên giới và hải đảo đã được triển khai thông qua các chương trình, dự án, cụ thể là Chương trình Viễn thông Công ích; Chương trình MTQG đưa thông tin về cơ sở; Dự án "Nâng cao khả năng sử dụng máy tính và truy cập Internet công cộng tại Việt Nam" do Quỹ Bill and Melinda Gates tài trợ góp phần thúc đẩy phát triển kinh tế - xã hội tại các địa phương, vùng sâu, vùng xa, biên giới và hải đảo. Về chính sách phát triển và thúc đẩy ứng dụng CNTT, Thủ tướng Chính phủ đã ban hành Quyết định số 1605/QĐ-TTg ngày 27/8/2010 phê duyệt Chương trình quốc gia về ứng dụng CNTT trong hoạt động của cơ quan nhà nước giai đoạn 2011 – 2015. Tại mục C Điều 1 của Quyết định đã quy định “Ngân sách địa phương và các nguồn kinh phí hợp pháp khác bảo đảm thực hiện các dự án, nhiệm vụ ứng dụng CNTT phục vụ cho hoạt động thuộc phạm vi của địa phương. Trong kế hoạch ngân sách hàng năm của các địa phương phải bảo đảm kinh phí cho ứng dụng CNTT trong hoạt động của cơ quan nhà nước” và “Ngân sách trung ương hỗ trợ đối với một số địa phương khó khăn để bảo đảm kinh phí triển khai các nội dung xây dựng hạ tầng kỹ thuật công nghệ thông tin tại các địa phương nhằm bảo đảm sự kết nối, liên thông giữa các cơ quan nhà nước khi triển khai các hệ thống thông tin và cơ sở dữ liệu lớn có quy mô quốc gia. Các cơ quan chủ trì triển khai các hệ thống này có trách nhiệm đề xuất hỗ trợ kinh phí cho các địa phương trên cơ sở nhu cầu thực tế, bảo đảm tránh trùng lặp, lãng phí. Mức hỗ trợ và đối tượng hỗ trợ cụ thể hàng năm do Thủ tướng Chính phủ quyết định”. Như vậy, theo quy định hiện hành, kinh phí chi ứng dụng CNTT cho các địa phương là do ngân sách địa phương bảo đảm. Đề nghị các địa phương cần bố trí kinh phí thực hiện chương trình theo quy định tại điểm c khoản 1 Điều 2 Quyết định 1605/QĐ-TTg.
Ứng dụng CNTT là một giải pháp quan trọng thúc đẩy cải các hành chính, nâng cao hiệu quả hoạt động của toàn xã hội. Tuy nhiên, một số địa phương còn khó khăn về kinh phí nên chưa đảm bảo kinh phí chi ứng dụng CNTT, chưa theo kịp các địa phương khác và có thể dẫn đến việc mất đồng bộ chung trên phạm vi cả nước. Về vấn đề này, ngày 28/12/2012, Bộ TTTT đã gửi văn bản số 3723/BTTTT-VP báo cáo Thủ tướng Chính phủ về những khó khăn, vướng mắc trong quá trình bố trí nguồn kinh phí cho ứng dụng CNTT và kiến nghị sửa đổi, bổ sung Quyết định số 60/2010/QĐ-TTg ngày 30/9/2010 ban hành các nguyên tắc, tiêu chí và định mức phân bổ vốn đầu tư phát triển bằng nguồn ngân sách nhà nước giai đoạn 2011-2015. Đề nghị bổ sung Chương trình quốc gia về ứng dụng CNTT trong cơ quan nhà nước giai đoạn 2011-2015 theo Quyết định 1605/QĐ-TTg vào danh mục các chương trình có mục tiêu, đồng thời xây dựng các nguyên tắc, tiêu chí và định mức phân bổ vốn cho Chương trình này làm cơ sở bố trí vốn ngân sách hàng năm cho các dự án thuộc Chương trình. Trên cơ sở kiến nghị của Bộ, Chính phủ đang chỉ đạo các bộ, ngành liên quan xem xét, rà soát những khó khăn, vướng mắc đồng thời tìm ra các giải pháp hữu hiệu tháo gỡ khó khăn trong công tác triển khai Chương trình quốc gia về ứng dụng CNTT trong hoạt động của cơ quan nhà nước giai đoạn 2011 - 2015.
IV. Chức năng, nhiệm vụ; Tập huấn, đào tạo; Thanh tra, xử lý vi phạm:
Câu hỏi 70: Kiến nghị Bộ TTTT sớm ban hành văn bản hướng dẫn chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn của Sở TTTT các tỉnh, thành phố (vì hiện nay được giao thêm nhiệm vụ, nhưng biên chế thì không có). (Bạc Liêu)
Trả lời: Việc ban hành thông tư hướng dẫn chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và cơ cấu tổ chức của Sở TTTT được căn cứ vào các văn bản:
- Nghị định quy định chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và cơ cấu tổ chức của Bộ TTTT.
- Nghị định thay thế Nghị định số 13/2008/NĐ-CP ngày 04/02/2008 quy định tổ chức các cơ quan chuyên môn thuộc UBND các tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương.
Hiện nay, các dự thảo nghị định này đang được Chính phủ xem xét, ban hành. Khi Chính phủ ban hành các nghị định nêu trên, Bộ TTTT sẽ phối hợp với Bộ Nội vụ để xây dựng Thông tư liên tịch hướng dẫn chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và cơ cấu tổ chức của Sở TTTT. Trong quá trình xây dựng, Bộ TTTT sẽ lấy ý kiến tham gia góp ý của các Sở TTTT để chất lượng của Thông tư liên tịch này được đảm bảo, giải quyết được những khó khăn vướng mắc của địa phương hiện nay.
Câu hỏi 71: Khi nhận được ý kiến của địa phương Bộ cần trả lời sớm để kịp thời triển khai, cụ thể: Công văn số 75/STTTT-BCXB ngày 19/02/2013 của Sở TTTT Gia Lai về việc đề nghị bổ sung đối tượng đào tạo, bồi dưỡng cán Bộ TTTT, nhưng đến nay không được trả lời. (Gia Lai)
Trả lời: Bộ TTTT đã nhận được Công văn số 75/STTTT-BCXB ngày 19/02/2013 của Sở TTTT Gia Lai về việc đề nghị bổ sung đối tượng đào tạo, bồi dưỡng cán bộ TTTT và đã chuyển Vụ Tổ chức cán bộ xử lý ngày 25/02/2013. Trước đó, ngày 16/01/2013, Bộ đã ban hành công văn số 187/BTTTT-KHTC hướng dẫn thực hiện Chương trình MTQG đưa thông tin về cơ sở miền núi, vùng sâu, vùng xa, biên giới, hải đảo năm 2013 trong đó đã hướng dẫn cụ thể về các đối tượng đào tạo, bồi dưỡng trong phạm vi Chương trình. Vì vậy, đề nghị Sở TTTT Gia Lai căn cứ vào hướng dẫn tại văn bản trên để triển khai thực hiện.
Câu hỏi 72: Đề nghị Bộ TTTT kiến nghị Thanh tra Chính phủ thống nhất các loại mẫu văn bản để thay thế Quyết định 1131/2008/QĐ-TTCP ngày 18/6/2008 của Thanh tra Chính phủ về việc ban hành Mẫu văn bản trong hoạt động thanh tra giải quyết khiếu nại, tố cáo. (Phú Yên)
Trả lời:
1. Quyết định số 1131/2008/QĐ-TTCP ngày 18/6/2008 của Thanh tra Chính phủ về việc ban hành mẫu văn bản trong hoạt động thanh tra, giải quyết khiếu nại, tố cáo được ban hành căn cứ vào các văn bản pháp luật sau:
- Luật Thanh tra ngày 15/6/2004;
- Luật Khiếu nại, tố cáo năm 1998; Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật khiếu nại, tố cáo năm 2004 và năm 2005;
- Nghị định số 41/2005/NĐ-CP ngày 25/3/2005 của Chính phủ quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành một số điều của Luật thanh tra;
- Nghị định số 136/2006/NĐ-CP ngày 14/11/2006 của Chính phủ quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành Luật khiếu nại, tố cáo và các Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật khiếu nại, tố cáo.
2. Hiện nay các văn bản pháp luật nêu trên đã được thay thế bởi các văn bản pháp luật mới như sau:
- Luật Thanh tra 2010;
- Luật Khiếu nại năm 2011;
- Luật Tố cáo năm 2011;
- Nghị định 75/2012/NĐ-CP hướng dẫn Luật Khiếu nại 2011;
- Nghị định 76/2012/NĐ-CP hướng dẫn Luật Tố cáo 2011;
- Nghị định 86/2011/NĐ-CP hướng dẫn Luật Thanh tra 2010;
- Nghị định 07/2012/NĐ-CP quy định về cơ quan được giao thực hiện chức năng thanh tra chuyên ngành và hoạt động thanh tra chuyên ngành.
Ngoài ra còn có một số văn bản pháp luật khác đã và đang được các cấp có thẩm quyền nghiên cứu và ban hành nhằm nâng cao hiệu quả trong công tác thanh tra, giải quyết khiếu nại, tố cáo.
3. Trong thời gian tới, Bộ TTTT sẽ đề nghị Thanh tra Chính phủ nghiên cứu thống nhất các loại mẫu văn bản trong hoạt động thanh tra, giải quyết khiếu nại, tố cáo để phù hợp với các quy định mới trong các văn bản pháp luật hiện hành.
Câu hỏi 73: Việc triển khai các văn bản QPPL của Bộ đề nghị phải kịp thời gửi về các Sở để triển khai thực hiện, hoặc đưa lên trang thông tin của Bộ nhưng file phải có dấu chứ hiện nay một số văn bản đưa lên chỉ có ghi (đã ký) là không đủ tính pháp lý để triển khai văn bản. (Quảng Trị)
Trả lời:
- Việc gửi văn bản quy phạm pháp luật của Bộ cho các Sở theo đường văn thư do Văn phòng Bộ thực hiện theo quy định của Luật ban hành văn bản quy phạm pháp luật năm 2008 và Quy chế xây dựng, ban hành, rà soát và hệ thống hóa văn bản quy phạm pháp luật ban hành kèm theo Quyết định số 138/QĐ-BTTTT ngày 29/01/2011 của Bộ trưởng Bộ TTTT.
- Việc đưa nội dung văn bản quy phạm pháp luật của Bộ lên Trang thông tin điện tử của Bộ hiện do Trung tâm Thông tin đảm trách, thực hiện theo quy định tại Nghị định số 43/2011/NĐ-CP ngày 13/6/2011 của Chính phủ quy định về việc cung cấp thông tin và dịch vụ công trực tuyến trên trang thông tin điện tử hoặc cổng thông tin điện tử của cơ quan nhà nước và Quy chế xây dựng, ban hành, rà soát và hệ thống hóa văn bản quy phạm pháp luật ban hành kèm theo Quyết định số 138/QĐ-BTTTT ngày 29/01/2011 của Bộ TTTT. Bản đăng nội dung văn bản quy phạm pháp luật của Bộ lên trang thông tin điện tử là bản ghi điện tử có chứa nội dung chính xác với văn bản quy phạm pháp luật đã được ban hành (bản thảo cuối cùng được người có thẩm quyền duyệt); một số văn bản Trung tâm Thông tin scan “Bản chính văn bản’’ là bản hoàn chỉnh về nội dung, thể thức văn bản và được cơ quan, tổ chức ban hành.
Tuy nhiên, văn bản quy phạm pháp luật đăng trên Trang thông tin điện tử của Bộ, kể cả bản scan và bản đóng dấu cũng chỉ có tính chất đối chiếu, tham khảo, đảm bảo tính minh bạch của hệ thống văn bản pháp luật, không có giá trị pháp lý. Theo quy định tại Điều 78 Luật ban hành văn bản quy phạm pháp luật năm 2008 và Nghị định số 100/2010/NĐ-CP ngày 28/9/2010 của Chính phủ thì: “Văn bản quy phạm pháp luật đăng trên Công báo là văn bản chính thức và có giá trị như bản gốc. Trong trường hợp có sự khác nhau giữa Công báo in và Công báo điện tử thì sử dụng Công báo in làm căn cứ chính thức’’.
Câu hỏi 74: Tổ chức các lớp tập huấn quản lý nhà nước về lĩnh vực thông tin và truyền thông cho các Sở TTTT và mở rộng đến các Phòng VHTT cấp huyện thông qua hình thức trực tuyến. (Sóc Trăng)
Trả lời: Hàng năm, Bộ có tổ chức tập huấn nghiệp vụ thanh tra, hướng dẫn triển khai thực thi văn bản quy phạm pháp luật mới cho cán bộ, công chức của các Sở (kể cả cho cán bộ làm công tác về thanh tra cấp huyện). Tuy nhiên, theo qui định về việc sử dụng kinh phí đào tạo, bồi dưỡng, nguồn ngân sách nhà nước cấp về đào tạo bồi dưỡng cán bộ, công chức, viên chức sẽ cấp trực tiếp cho các cơ quan chủ quản trực tiếp để điều phối và phân bổ trong ngành dọc của mình (UBND cấp tỉnh sẽ phân bổ kinh phí đào tạo, bồi dưỡng cho Sở của địa phương mình). Hiện nay, Bộ cũng chỉ được ngân sách nhà nước cấp 1 nguồn kinh phí hạn hẹp để đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công chức, viên chức của Bộ và không có nguồn kinh phí nào bồi dưỡng cho cán bộ, công chức của các Sở. Vì vậy, Bộ cũng mong các Sở tăng cường tính chủ động trong việc bồi dưỡng cho cán bộ, công chức của đơn vị mình. Đối với đào tạo, cán bộ cấp huyện, các Sở trên cơ sở những hướng dẫn, tập huấn của Bộ nên chủ động tập huấn thêm nghiệp vụ cho đội ngũ này và có kiến nghị với Ủy ban nhân dân địa phương mình để tìm ra những giải pháp hợp lý. Bộ sẽ cân nhắc lựa chọn các hình thức tập huấn quản lý nhà nước để phù hợp với yêu cầu thực tiễn.
Câu hỏi 75: Đề nghị Bộ TTTT nghiên cứu tổ chức các lớp tập huấn về lĩnh vực xuất bản, quảng cáo, phát ngôn và cung cấp thông tin cho báo chí cho các Sở TTTT cấp tỉnh vì các lĩnh vực này hiện đã có những văn bản, quy định mới sửa đổi, bổ sung. (Yên Bái)
Trả lời: Ngày 04/5/2013, Thủ tướng Chính phủ ban hành Quy chế phát ngôn và cung cấp thông tin cho báo chí theo Quyết định số 25/2013/QĐ-TTg thay thế Quy chế phát ngôn và cung cấp thông tin cho báo chí ban hành năm 2007.
Thực hiện kế hoạch công tác năm 2013, Bộ TTTT sẽ tổ chức tập huấn và triển khai việc thực hiện Quy chế phát ngôn và cung cấp thông tin cho báo chí cho đại diện UBND, lãnh đạo Sở TTTT các tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương và lãnh đạo các cơ quan báo chí tại 2 miền Nam, Bắc trong giai đoạn 6 tháng cuối năm 2013.
Câu hỏi 76: Tổ chức tập huấn, hướng dẫn việc thanh tra quản lý về công nghệ thông tin tại các cơ quan Nhà nước, các tổ chức, cá nhân hoạt động trong lĩnh vực CNTT (cụ thể tại các cửa hàng bán máy móc, thiết bị linh kiện máy vi tính hoặc thiết bị viễn thông và các sản phẩm đầu cuối thiết bị viễn thông…) và các Nghị định xử phạt kèm theo. (Phú Yên)
Câu hỏi 77: Đề nghị Bộ nghiên cứu, xây dựng và ban hành các văn bản quy định xử phạt vi phạm hành chính đối với lĩnh vực, thiết bị điện tử, thiết bị tin học, công nghệ thông tin thuộc chức năng quản lý của ngành thông tin và truyền thông, trong những năm gần đây lĩnh vực này phát triển rất nhanh, có nhiều hành vi vi phạm mới xuất hiện, nhưng hiện nay chế tài xử lý vi phạm rất ít, hạn chế, không theo kịp xu hướng phát triển (việc xử lý vi phạm chủ yếu dựa trên các quy định xử phạt của ngành khác). (Gia Lai)
Trả lời câu 76 và 77:
- Về việc tổ chức tập huấn, hướng dẫn việc thanh tra quản lý về CNTT tại các cơ quan nhà nước, các tổ chức, cá nhân hoạt động trong lĩnh vực CNTT và các Nghị định xử phạt kèm theo: Theo kế hoạch hàng năm được Bộ trưởng phê duyệt, Bộ TTTT đã giao nhiệm vụ cho Thanh tra Bộ tổ chức tập huấn về nghiệp vụ thanh tra chuyên ngành Thông tin và Truyền thông cho Sở TTTT các tỉnh, thành phố. Trong các đợt tập huấn, Thanh tra Bộ đưa vào tập huấn nội dung thanh tra về lĩnh vực công nghệ thông tin. Trong những năm tới, Thanh tra Bộ sẽ tiếp tục đưa nội dung này vào các đợt tập huấn thanh tra chuyên ngành Thông tin và Truyền thông.
- Về xây dựng chế tài xử phạt vi phạm hành chính đối với “thiết bị điện tử, thiết bị tin học, công nghệ thông tin thuộc chức năng quản lý của ngành Thông tin và Truyền thông”: Dự thảo Nghị định xử phạt vi phạm hành chính về bưu chính, viễn thông, công nghệ thông tin và tần số vô tuyến điện đã được Bộ TTTT xây dựng và trình Chính phủ vào tháng 8/2013. Ban soạn thảo và Tổ biên tập đã nghiên cứu kỹ các quy định quản lý nhà nước đối với các lĩnh vực nêu trên để quy định thành chế tài xử phạt (bao gồm cả “thiết bị điện tử, thiết bị tin học, công nghệ thông tin thuộc chức năng quản lý của ngành Thông tin và Truyền thông”). Ngoài ra, một số hành vi vi phạm trong lĩnh vực quản lý nhà nước của Bộ TTTT phát sinh trong thực tế cũng được nghiên cứu, tiếp thu và đưa vào trong Dự thảo Nghị định. Tuy nhiên, việc xây dựng chế tài xử phạt phải căn cứ trên cơ sở quy định quản lý được quy định trong các văn bản quy phạm pháp luật. Ban soạn thảo và Tổ biên tập đã cố gắng nghiên cứu các quy định quản lý và tiếp thu các ý kiến góp ý để Dự thảo Nghị định được hoàn chỉnh. Bộ TTTT rất hoan nghênh và tiếp tục mong nhận được các ý kiến góp ý chi tiết để Dự thảo Nghị định được hoàn thiện hơn.
Bộ TT&TT