Việc gia tăng các vụ va chạm giữa Bắc Kinh và Washington có thể vô tình leo thang thành xung đột quân sự giữa Mỹ và Trung Quốc. Khi quan hệ ngoại giao giữa Trung Quốc và Mỹ xấu đi và rớt xuống mức thấp nhất kể từ năm 1979 (khi 2 nước thiết lập quan hệ ngoại giao) thì một cuộc xung đột quân sự giữa 2 nước không còn là một khả năng quá xa xôi.
Tàu sân bay Mỹ USS Ronald Reagan và tàu sân bay USS Nimitz có hoạt động diễn tập chung ở Biển Đông ngày 6/7/2020. Ảnh: AP.
Lần giao tranh trực tiếp cuối cùng giữa 2 nước là trong
Chiến tranh Triều Tiên (1950-1953), khi hoạt động thương mại song phương còn lẻ tẻ và quan hệ ngoại giao giữa 2 nước chưa được thiết lập. Khi ấy Trung Quốc can thiệp là do e sợ viễn cảnh một bán đảo Triều Tiên thống nhất nhưng lại đi theo Mỹ, ngay trước thềm cửa nhà mình.
Rủi ro sự cố trên Biển Đông
Tuy nhiên, trường hợp Biển Đông thì lại khác. Giới chuyên gia cho rằng khác với Chiến tranh Triều Tiên, một cuộc đụng độ trực tiếp giữa Mỹ và Trung Quốc có khả năng sẽ bắt nguồn từ một sự cố hơn là một hành vi tấn công quân sự cố ý của một trong hai bên.
Michael Austin, một nhà nghiên cứu tại Viện Hoover (Đại học Stanford) ở California (Mỹ) nói: “Có đảo tranh chấp, có va chạm, có hăm dọa, tình hình bị làm xấu đi. Bắc Kinh và Washington đều không muốn chiến tranh nhưng tôi e rằng họ có thể lỡ mắc sai sót nguy hiểm”.
Biển Đông là một trong những biển giá trị nhất thế giới. Mỗi năm, 1/3 hoạt động vận tải hàng hải toàn cầu đi qua đây, với lượng hàng hóa thương mại trị giá hơn 3.000 tỷ USD. Các ngư trường phong phú cùng tiềm năng cực lớn về dầu khí là một trong nhiều lý do khiến nơi đây trở thành một trong những khu vực bị tranh chấp nặng nề nhất thế giới.
Hải quân Mỹ với các căn cứ ở Nhật Bản, Philippines, và Guam, thống trị nhiều nơi ở Thái Bình Dương. Trong khi đó,
Trung Quốc đã cố gắng trong thời gian dài chống lại ảnh hưởng này bằng chiếm đóng (trái phép) nhiều đảo ở Biển Đông hoặc tự tạo ra (trái phép) các đảo nhân tạo, sử dụng các yêu sách lịch sử (phi pháp) đối với khoảng 90% Biển Đông.
Bút lục về các sự cố quanh các đảo ở Biển Đông là lý do vì sao Austin đã lựa chọn Biển Đông là điểm nóng trong kịch bản xung đột quân sự giữa Mỹ và Trung Quốc mà ông xây dựng trong cuốn sách của mình mang tên “Asia’s New Geopolitics” xuất bản hồi tháng 4.
Các thí dụ được nêu ra bao gồm năm 2001, khi một máy bay trinh sát Mỹ và một chiến đấu cơ Trung Quốc va chạm ở vị trí cách quần đảo Hoàng Sa 160km. Một phi công Trung Quốc thiệt mạng trong vụ va chạm này, còn máy bay Mỹ buộc phải hạ cánh khẩn cấp ở tỉnh Hải Nam (Trung Quốc).
Hải quân Mỹ thường xuyên thực hiện các hoạt động tự do hàng hải qua các khu vực mà Trung Quốc cố kiểm soát, khiến lực lượng hải quân 2 bên nhiều khi ở rất sát nhau. Vào tháng 10/2018, một khu trục hạm Trung Quốc tiến sát, chỉ cách một chiến hạm của Mỹ có 40 m và hai tàu suýt va chạm nhau. Austin hỏi: “Chuyện gì sẽ xảy ra nếu một tàu chiến Mỹ bị chìm?”.
Theo Austin, từ góc nhìn của Mỹ, một cuộc chiến với Trung Quốc vì Biển Đông là dễ hiểu hơn so với vì vấn đề Đài Loan (một điểm nóng khác trong quan hệ 2 nước).
Chính quyền Mỹ đã thể hiện quan điểm cứng rắn hơn với Trung Quốc sau khi Ngoại trưởng Mỹ vào hôm 13/7/2020 ra thông cáo bác bỏ hầu hết các yêu sách của Bắc Kinh đối với Biển Đông, đồng thời tuyên bố rằng Mỹ sẽ “không cho phép Bắc Kinh coi Biển Đông như đế chế của mình trên biển”.
Các nhà bình luận diều hâu có dính líu đến quân đội Trung Quốc đã đi xa hơn các tuyên bố mang tính ngoại giao của phát ngôn viên Bộ Ngoại giao Trung Quốc.
Hồi tháng 12/2018, tướng quân đội Trung Quốc về hưu Luo Yuan gợi ý dùng tên lửa để đánh một hoặc hai tàu sân bay Mỹ ở Biển Đông và cho rằng điều này sẽ đập tan nhuệ khí của Mỹ trong khu vực.
Trung Quốc khẩn trương nâng cao năng lực quân sự, Mỹ dè chừng cao độ
David Ochmanek, một cựu nhà hoạch định quân sự trong Bộ Quốc phòng Mỹ, nay là nhà nghiên cứu cao cấp của tổ chức Rand có trụ sở ở California (Mỹ). Ông tham gia nhiều cuộc tập trận mô phỏng xung đột quy mô lớn với Trung Quốc trong 15 năm qua và đã chứng kiến năng lực các siêu cường thay đổi như thế nào.
David Ochmanek đánh giá sức chiến đấu của quân đội Trung Quốc đã tăng đáng kể qua các cột mốc năm 2005, 2010, và 2020, và sẽ thay đổi nữa qua các năm 2025, 2030.
Theo các chuyên gia, quân đội Trung Quốc đã tập trung xây dựng năng lực của mình theo hướng đáp ứng nhu cầu tác chiến ở
Biển Đông.
Charlie Lyons Jones, một nghiên cứu viên của Viện Chính sách Chiến lược, cho rằng chiến lược của PLA (tức Quân giải phóng Nhân dân Trung Quốc) tập trung quanh năng lực ngăn quân đội Mỹ tiếp cận các vùng biển gần Trung Quốc, hoặc ít nhất thách thức quyền tự do đi lại bên trong “chuỗi đảo thứ nhất” – một thuật ngữ hay được các lãnh đạo quân sự Trung Quốc sử dụng cho các quần đảo bảo vệ các vùng biển mà Trung Quốc kiểm soát hoặc ra yêu sách.
Theo Jones, “việc PLA nhanh chóng xây dựng các lực lượng tên lửa, đặc biệt là lực lượng có năng lực săn hạm, là sự phát triển tự nhiên từ chiến lược trên”.
Báo cáo năm 2015 của hãng Rand đã so sánh sức mạnh quân sự của Mỹ và Trung Quốc trên tất cả các mặt trận. Báo cáo này nhận xét rằng dù “năng lực công nghệ và sự thành thục tác chiến của Trung Quốc” vẫn lạc hậu so với Mỹ nhưng Trung Quốc đang nhanh chóng thu hẹp khoảng cách.
Năm 2018, Ochmanek viết một báo cáo vạch ra 5 năng lực quân sự của Trung Quốc đang cải thiện nhanh khiến Mỹ quan ngại: 1- tên lửa chính xác tầm xa; 2- không quân và hệ thống phòng không hiện đại; 3- hệ thống trinh sát và ngắm bắn; 4- tác chiến trong không gian mạng; và 5- vũ khí hạt nhân có khả năng phóng xuống các mục tiêu Mỹ.
Về mặt địa lý, Trung Quốc có lợi thế so với Mỹ do ở gần Biển Đông hơn.
Tuy nhiên, nếu
xung đột quân sự kéo dài thì lợi thế lại nghiêng về Mỹ, vì Trung Quốc ở gần nơi xung đột nên sẽ bị thiệt hại nhiều hơn.
Ochmanek nói, khi ấy (chiến tranh kéo dài), kinh tế Trung Quốc sẽ bị rối loạn, tàu bè thương mại không đi vào vùng xung đột.
Auslin cho biết, cả Mỹ và Trung Quốc đều dè chừng về nguy cơ leo thang xung đột quân sự vượt ngoài kiểm soát, có thể dính đến vũ khí hạt nhân./.